Vừa là nhà phê bình văn học vừa là người viết sử, Thụy Khuê đã hoàn tất nhiều công trình công phu: Nhân Văn Giai Phẩm – Vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tự Lực Văn Đoàn – Văn học và Cách Mạng, Vua Gia Long và Người Pháp… Có thể xếp Thụy Khuê vào khuynh hướng duyệt xét lại lịch sử trong mục đích tìm kiếm sự thật, hay ít nhất những gì đã xảy ra trong quá khứ còn có thể thu thập được qua văn bản mà không chịu tác động của tuyên truyền, cùng các định kiến.
Lịch sử Truyền giáo và chữ Quốc ngữ là nghiên cứu đồ sộ sau cùng của Thụy Khuê. Chương viết về Trương Vĩnh Ký với sưu khảo dày đặc tài liệu nói lên công sức của bà đang cho cách nhìn khác về một nhân vật được xem là vĩ nhân đất Việt. Trương Vĩnh Ký có xứng đáng không? Câu trả lời của Thụy Khuê đầy nghiêm khắc: Trương Vĩnh Ký xứng đáng nhận Bắc đẩu Bội tinh của xứ Đại Pháp.
Đồng ý hay không, trước nhất phải đọc những tài liệu mà Thụy Khuê tìm thấy. [Trần Vũ]
Chương 11 – Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
Phần VII: Cuộc xâm lăng của Pháp dưới ngòi bút
Trương Vĩnh Ký – Kỳ 3
Thụy Khuê
Quy tội mất nước cho nhà Nguyễn
Mở đầu kỷ nguyên nhà Nguyễn, Trương Vĩnh Ký chào đón việc Gia Long ra Bắc, kết thúc chiến tranh, thu giang sơn thành một mối, với những hàng sau đây:
“Ngày nay, chúng ta có dưới mắt bức tranh không vinh hiển, của vương triều mà tới nay, Gia Long và những người kế nghiệp, là chủ mới. Sự cố chấp mù quáng của họ đã làm mất Lục tỉnh-Nam Kỳ, việc cai trị tồi bại của họ đã làm mất lòng người Bắc; còn về nước Annam nói riêng, tiếp theo những bất hạnh, những bạo tàn thống trị toàn dân, những chuyên chế bạo ngược và gian tham của các quan lại trong mọi từng lớp mà ai cũng biết chẳng cần kể lại. Nếu người ta muốn nước Annam ở Huế, có một đời sống chính trị hữu ích, nếu triều Nguyễn muốn tồn tại, thì phải tìm kiếm một con đường và triệt để noi theo. Phần chúng tôi, là sử gia trung thành và cần mẫn, chúng tôi luôn luôn biết tôn trọng và trả lại công bằng cho quá khứ; chúng tôi không hề quên rằng: Người Việt ở Pháp, ở Nam kỳ hay Bắc kỳ, đều cùng chung một gốc. Mặc dù số mệnh chính trị phân chia, chúng tôi đồng lòng đứng lên chống lại hệ thống cai trị sai lầm này, nó trái ngược với chính sách kinh tế lành mạnh, nó đã làm cho dân tộc trở thành bầy súc vật của nhà vua, và nó chỉ là sự khai thác vụng về và tàn ác một đất nước, bởi tầng lớp tham quan vô lại.
Thêm nữa, chúng tôi không nề hà mà thú nhận rằng: cách tổ chức chính trị tốt đẹp của những dân tộc Tây phương, đứng đầu là Pháp, đã quyến rũ chúng tôi, đã cuốn hút niềm tin của chúng tôi cùng sự kính trọng và lòng tận tụy trung thành của chúng tôi, như nó đã từng chinh phục thiện cảm của những dân tộc, mà nước Pháp đã sát nhập vào đế quốc của họ, kinh ngạc vì thấy bao nhiêu tự do, bao nhiêu che chở, bao nhiêu an ninh, ở những người thầy, mà những dân tộc này đã đương nhiên coi là kẻ thù”.

Nguyên văn tiếng Pháp:
Tự xưng mình là “sử gia trung thành và cần mẫn” để viết những dòng trên đây, mở đầu sự buộc tội “làm mất nước của nhà Nguyễn” và “công ơn khai hóa” của nước Pháp đối với dân tộc ta. Trương Vĩnh Ký chỉ trích nặng nề nhà Nguyễn, nhưng ông chỉ viết suông, không đưa ra tài liệu thực chứng nào. Theo ông, từ Gia Long trở đi, là một chế độ tồi tàn, quan lại tham nhũng, tàn ác, mà “toàn dân” đồng lòng muốn đứng lên lật đổ. Ông khâm phục chính sách cai trị “tự do, bao dung” của chính quyền thực dân mà ông đang phụng sự. Ông chỉ trích các quan và nhà nho: “họ chống Pháp vì lòng ghen tuông căm thù. Họ hết sức cố gắng kéo Gia Long ra khỏi ảnh hưởng của Pháp”. [26]
Những “trang sử” kết tội một chiều như thế, không còn là tác phẩm của một sử gia nữa, mà là ngòi bút vinh thăng nước Pháp, coi sự xâm lăng là “đại phúc” cho các dân tộc được Pháp cưỡng chiếm. Tệ hơn, Trương Vĩnh Ký không chỉ nhân danh riêng mình và dân tộc mình để tôn sùng thực dân, mà ông còn nhân danh cả các dân tộc khác đã “được” Pháp thôn tính, đều một lòng biết ơn nước Pháp. Ông chân thành viết nên những điều đó để dạy học trò Việt Nam.
Đặc biệt ngòi bút của ông chiếu vào Minh Mạng như kẻ thù số một, với tất cả “tội ác” có thể mường tượng được: Lên ngôi không chính thức, hủ hoá với chị dâu (vợ góa Hoàng tử Cảnh) đến khi có mang, ra lệnh giết bà cùng với hai cháu. Sát hại công thần của cha: giết Nguyễn Văn Thành. Bạc đãi Lê Văn Duyệt.Đối xử tệ bạc với các “ân nhân” người Pháp, đã giúp vua Gia Long “lấy lại cơ đồ”. Không tiếp sứ giả Pháp. Đàn áp đạo Chúa, bắt các giáo sĩ về kinh dịch sách, rồi đày họ lên vùng nước độc cho chết dần, v.v.
Ở đây, chúng tôi làm hai việc:
– Trình bày lại những lập luận chính của Trương Vĩnh Ký, trong việc xuyên tạc vua Minh Mạng và xưng tụng công lao của người Pháp.
– Tìm hiểu: bằng cách nào? Trương Vĩnh Ký đã tiên phong dẫn dắt các học giả, sử gia Pháp như Maybon, Cadière, thiết lập một lịch sử giả, với các tài liệu giả, để chứng tỏ người Pháp “có công đầu” trong việc giúp Nguyễn Ánh thành lập quân đội, xây dựng thành trì, và chiến thắng Tây Sơn.
– Những văn bản lịch sử giả này được quảng bá và lưu truyền từ cuối thế kỷ XIX trong các tác phẩm sử địa của Trương Vĩnh Ký; được sử gia thực dân chép lại, và sử gia người Việt viết theo, với hai mục đích chính:
1- Tố cáo nhà Nguyễn từ thời Minh Mạng đã làm mất nước với các chính sách: cấm đạo, bế quan tỏa cảng, cai trị bạo tàn.
2- Vinh thăng công ơn người Pháp, đến để cứu dân, cứu đạo, và khai hóa dân tộc ta.
Đã âm thầm được người Việt chấp nhận, vì không ai phản bác, và trở thành “sự thực lịch sử”.
Vua Minh Mạng dưới ngòi bút Trương Vĩnh Ký
Để độc giả thấy rõ cách viết lịch sử của Trương Vĩnh Ký, chúng tôi xin trích đoạn văn tiêu biểu trong cuốn Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình lịch sử An Nam) viết về vua Minh Mạng, và dịch sang tiếng Việt dưới đây:
“Thực thế, Minh Mạng lên làm vua, tiếm ngôi của con trai Hoàng tử Cảnh, lo ngại một ngày sẽ có người trong chính gia đình tranh ngôi với mình, trong khi ở ngoài Bắc, con cháu nhà Lê bắt đầu được những người bất mãn ủng hộ. Người anh Cảnh [thái tử Cảnh] chết đi để lại hai con trai, sự tàn mạt của chúng đã định trước. Nghe nói, Minh Mạng, tư thông với người vợ góa của anh mình, bà này có thai, khi tình trạng lộ rõ, bị ông ta buộc cho tội loạn luân và kết án tử hình, cùng với hai con trai, là cháu ruột của ông ta. Tuy có cho hưởng ân huệ được chọn cách chết.
Sau tội ác vô liêm sỉ và đạo đức giả đen tối nhất pha trộn với lòng hiểm ác thâm độc tranh nhau diễn đàn vinh hiển như thế, ta có cần phải ngạc nhiên trước thái độ của nhà vua đối với các sĩ quan Pháp và các vị thừa sai? Không, dĩ nhiên là không. Minh Mạng, bản chất độc ác, lạnh lùng, đen tối và gian trá, từ nay có thể làm tất cả, mà tin chắc là không bao giờ quá đáng.
Sau khi loại trừ được hai địch thủ chính thức [hai con của thái tử Cảnh], ông ta nghĩ đến việc tiêu diệt hai lão tướng hiển vinh, quan đầu triều, có ảnh hưởng lớn, là bạn đồng hành và chiến thắng của cha, mà uy quyền của họ gây trở ngại cho ông ta trong những thủ đoạn nham hiểm và độc ác: Chưởng Trung quân, Nguyễn Văn Thiềng [Thành], Tổng trấn Bắc thành và đại hoạn quan [Chưởng Tả quân] Lê Văn Duyệt, ông này quý trọng người Pháp mà sự có mặt ở Huế gây thiệt hại cho sự lèo lái những mưu mô ghê tởm của ông ta.
Tới đây, còn hiện ra mưu mẹo khốn nạn là đáy sâu bản chất đồi bại của nhà vua:
Minh Mạng quyết định gán tội phản loạn cho họ, bằng cách mua chuộc hai viên thư ký giữ triện của hai người này, khiến chúng làm đồng loã với vua, sai chúng học viết giống như chữ cuả chủ và chữ con trai chủ. Ít lâu sau, người ta dùng cạm bẫy bắt được một lá thư giả mạo, đưa lên Minh Mạng. Lá thư này kêu gọi nổi loạn, viết chữ con trai kinh lược Bắc Hà, dưới đóng triện của Kinh lược Thiềng. Thiềng, lập tức bị gọi từ Bắc về triều, không thể chối cãi dấu triện của chính mình và chữ của con mình. Chứng cớ rành rành. Không cần đếm xỉa đến những lời giải thích, biện hộ, không cần đếm xỉa đến quá khứ oanh liệt của Thiềng, Minh Mạng xử tử. Thiềng và con trai nhận lệnh phải chết.
Lê Văn Duyệt dự buổi xử của nhà vua; Thiềng bị kết án trước mắt ông. Duyệt biết rõ Minh Mạng; hiểu ngay bạn mình là nạn nhân sự tráo trở của nhà vua và đoán ra âm mưu ghê tởm mà ông ta đã bị rơi vào; lòng oán hận đột nhiên nổi dậy, ông rời triều về tìm cái triện của mình có còn nguyên chỗ cũ hay không. Không thấy. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Ông tức khắc sai tìm người gác triện, thấy y đứng như bất tỉnh, dáng điệu lơ láo, bên giếng, y được dẫn tới trước mặt ông, và bị lục soát. Thấy ngay cái triện và một bức thư giả, chưa gửi. Thống chế [Lê Văn Duyệt] sai chặt đầu y tức khắc. Sau đó, ông tìm gặp Minh Mạng, nói rằng miền Lục tỉnh đang có băng đảng hoành hành, ông phải về để dẹp trước khi nổ lớn. Minh Mạng không dám giữ; mà còn sung sướng thấy ông tự ý rời xa. Lê Văn Duyệt về Sài Gòn với chức Kinh Lược Sứ.” [27]
Nguyên văn tiếng Pháp:
Trước những lời buộc tội chắc nịch này, người đọc có hai giải pháp: hoặc chấp nhận đó là sự thực, hoặc phản bác bằng một sự thực khác. Chúng tôi lựa giải pháp thứ nhì: Thử xem biên niên sử Việt Nam viết gì?
Đại Nam chính biên liệt truyện
Cuốn Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình lịch sử Annam) được in ra trong khoảng 1875- 1877 (hay 1879), lúc đó bộ Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (từ quyển 1 đến quyển 32), ghi rõ chân dung của ba nhân vật: Thái tử Cảnh, Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, chưa được công bố, mãi đến năm 1889, mới khắc in. Bài tựa Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, viết rất rõ về quá trình soạn sách và in sách, như sau:
“Bọn thần phụng chỉ tra cứu suốt từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đặt ra sử quán, chọn sai nho thần biên chép lâu năm. Đến buổi đầu năm Thiệu Trị kính vâng sắc chỉ chuẩn cho sửa làm liệt truyện, để đủ làm quan chiêm của một triều đại và để bảo rõ điển chương đến muôn đời sau. Tới năm Tự Đức thứ 5 (1852) bộ “Tiền biên liệt truyện” làm xong; phụng chỉ kế tiếp làm bộ “Đệ nhất kỷ chính biên liệt truyện”, các viên ở sử quán lúc ấy, tham bổ, khảo xét đính chính, chia ra từng mục, biên thành từng loại. Đầu là các truyện của Hậu phi, thứ là Hoàng tử, công chúa, thứ nữa là các bề tôi [… ] nhan đề là “Chính biên liệt truyện sơ tập”. Trong đó tìm lấy nguyên nhân từ trước, cốt yếu về sau, việc xét đúng, văn rõ ràng, thực đáng làm gương để khảo xét, nhân lúc nhiều việc, chưa kịp đem khắc ra ban hành, bản thảo vẫn để ở Lan Đài (tức là sử quán), không ai được thấy sự bí mật của bộ sách ấy“.
[…]
Kính cẩn tâu lên
Thành Thái năm thứ 1 (1889) tháng 10 ngày 13 đệ tâu (ngày 5 tháng 11 năm 1889). Vâng chỉ chuẩn y lời tâu, phải kính theo lời chỉ.
(Thần) Nguyễn Trong Hợp, Bùi Ân Niên… [30]
Như vậy, các bộ Đại Nam liệt truyện đã bắt đầu soạn từ năm Minh Mạng thứ 2 (1821) khi vua Minh Mạng đặt ra sử quán, đến năm Tự Đức thứ 5 (1852) bộ Liệt truyện tiền biên [các đời chúa] làm xong và được lệnh làm tiếp Liệt truyện chính biên [từ thời Gia Long trở đi]. Khi soạn xong, để trong sử quán, không ai được thấy. Đến năm Thành Thái thứ 1 (1889), mới dâng vua xin in.
Tóm lại, ta có thể chắc chắn rằng vua Minh Mạng không đọc, nên không thể có một sự “kiểm duyệt” nào đó (nếu ông muốn) đối với các chi tiết trong hai bộ sách Đại Nam thực lục (bắt đầu in dưới thời Tự Đức) và Đại Nam liệt truyện (bắt đầu in dưới thời Thành Thái). Điểm này khiến ta có thể tin tưởng vào sự xác thực của những sự việc được ghi lại dưới thời Minh Mạng in trong Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện.

So sánh những sự kiện được trình bày trong Giáo trình lịch sử Annam và Đại Nam liệt truyện, sự xuyên tạc và bôi nhọ Minh Mạng của Trương Vĩnh Ký lộ rõ sắc thái không thể chối cãi được. Xin nêu ra những điểm chính dưới đây:
Việc lập hoàng tử Đởm (Minh Mạng sau này) làm Thái tử, theo Trương Vĩnh Ký, gặp sự phản đối của hai quan đại thần: Nguyễn Văn Thiềng [Thành] và Lê Văn Duyệt, cho nên hai người này bị Minh Mạng thù.
Việc này, Đại Nam thực lục viết như sau (tóm tắt):
Tháng 1-1816, vua Gia Long quyết định lập Hoàng thái tử:
“Vua đã tuổi cao mà chưa định người nối ngôi, hoàng tử thứ tư [Đởm] hiền và lớn hơn cả [25 tuổi]. Vua đã để ý. Bầy tôi đều có lòng theo“. Trừ Nguyễn Văn Thành, muốn cử người trẻ hơn, để cho dễ bảo [31], đòi lập người khác, nhưng Gia Long lờ đi, không nghe [32].
Ngày canh dần, tháng ba, năm Bính Tý [7-4-1816] Gia Long triệu Thượng thư bộ Lại Trịnh Hoài Đức đến bên giường, sai viết chiếu lập hoàng tử Hiệu [tức Đởm] làm Hoàng thái tử rồi đưa cho quần thần xem và bảo: “Ai đồng ý thì ký tên vào“. Mọi người cùng tâu: “Bọn thần xin noi theo mệnh lệnh“ [33].
Trương Vĩnh Ký viết lại chuyện này như sau:
“Hai ông già nổi tiếng, bạn đồng hành của Gia Long, là Chưởng Trung quân Nguyễn Văn Thiềng [Thành] và Chưởng Tả quân, Lê Văn Duyệt muốn Gia Long đổi ý, phản bác rằng: Theo luật tự nhiên và theo định chế nhà nước, người nối dõi phải chọn trong ngành trưởng, con của hoàng hậu chính thức (l’héritier devrait être choisi dans la branche ainée des fils de la reine légitime) và đòi dựng con trai của Hoàng tử Cảnh…” [34], nhưng Gia Long không nghe.
Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt không thể nói một câu như thế, vì họ biết rõ truyền thống nhà Nguyễn: Không có Hoàng hậu chính thức, chỉ có các bà Phi. Trong Đại Nam liệt truyện tiền biên, không có mục Hoàng hậu liệt truyện mà chỉ có mục Hậu phi liệt truyện. Và trong Đại Nam liệt truyện, các Hoàng tử, Công chúa con các bà phi, được ghi tên theo thứ tự sinh ra, đề tên mẹ bên cạnh, chứ không phân biệt con chính thức hay không chính thức. [35]
Tóm lại, triều Nguyễn không có Hoàng hậu, đến đời Bảo Đại, Nam Phương được phong làm Hoàng hậu, vì bà đòi hỏi điều kiện này trước khi kết hôn.
Về bà phi, mẹ hoàng tử Cảnh, Đại Nam thực lục ghi như sau:
“Tháng 3, ngày Tân tỵ, hoàng tử cả Cảnh (tức là Anh Duệ hoàng thái tử) sinh, do nguyên phi Tống thị (tức là Thừa thiên Cao hoàng hậu); phi là con gái ngoại tả chưởng dinh Tống Phước Khuông […] Khi Duệ Tông [Nguyễn Phước Thuần] vào Nam, phi theo Phước Khuông vào Gia Định. Năm Mậu Tuất, vua sửa lễ cưới, tấn phong làm nguyên phi“.[36]
Trương Vĩnh Ký khi viết những dòng trên đây, không thể không biết đến truyền thống này của nhà Nguyễn, nhưng ông đặt ra câu chuyện Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt dựa vào “định chế nhà nước” bắt bẻ vua Gia Long. Sự bịa đặt này chỉ để củng cố lập luận: Minh Mạng không phải là con chính thức, mà là kẻ tiếm ngôi của cháu. Việc này, tuy không quan trọng lắm, nhưng dẫn đến sự bịa đặt thứ hai.
(còn tiếp 2 kỳ)
[25] Trương Vĩnh Ký, Cours d’Histoire Annamite, Imprimerie du Gouvernement, Sài Gòn, volume 2, pages 251-252.
[26] Nguyên văn tiếng Pháp: “…de la jalousie haineuse des mandarins et des lettrés dont à part quelques exceptions… tous les efforts tendaient à soustraire Gia Long à l’influence francaise”.»Trương Vĩnh Ký, Cours d’Histoire Annamite, Imprimerie du Gouvernement, Sài Gòn, 2e volume, trang 256.
[27] Trích dịch Cours d’Histoire Annamite, trang 259-261.
[28] Chú thích của Trương Vĩnh Ký: có nghiã là được chọn một trong ba cách chết: thắt cổ hay treo cổ. Uống thuốc độc. Dùng kiếm cắt cổ.
[29] Cours d’Histoire Annamite, trang 259-261.
[30] Đại Nam liệt truyện tập 2 (tức Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập), nxb Thuận Hoá, Huế, 1997, trang 8-9.
[31] Vua, chúa thời đó có tới một, hai trăm con, là thường.
[32] Đại Nam Thực Lục chính biên, trang 912.
[33] Đại Nam Thực Lục chính biên, trang 920.
[34] Cours d’Histoire Annamite, trang 255.
[35] Nguyễn Kim, dù được phong là Triệu tổ, tức hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn, nhưng vợ ông, là mẹ của chúa Tiên Nguyễn Hoàng tức Thái Tổ, vẫn ở trong mục Hậu phi liệt truyện. Sở dĩ những bà Phi của chúa Nguyễn, dù con lên làm chúa, sinh thời vẫn không được phong hoàng hậu, bởi vì chúa Nguyễn chỉ là chúa, vua Lê mới thực sự là vua. Đến thời Gia Long, mới có quyết định thăng chức Hoàng hậu cho các bà phi thời trước là mẹ chúa.
[36] Đại Nam thực lục Tiền biên và Chính biên, trang 208.









