Vừa là nhà phê bình văn học vừa là người viết sử, Thụy Khuê đã hoàn tất nhiều công trình công phu: Nhân Văn Giai Phẩm – Vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tự Lực Văn Đoàn – Văn học và Cách Mạng, Vua Gia Long và Người Pháp… Có thể xếp Thụy Khuê vào khuynh hướng duyệt xét lại lịch sử trong mục đích tìm kiếm sự thật, hay ít nhất những gì đã xảy ra trong quá khứ còn có thể thu thập được qua văn bản mà không chịu tác động của tuyên truyền, cùng các định kiến

Lịch sử Truyền giáo và chữ Quốc ngữ là nghiên cứu đồ sộ sau cùng của Thụy Khuê. Chương viết về Trương Vĩnh Ký với sưu khảo dày đặc tài liệu nói lên công sức của bà đang cho cách nhìn khác về một nhân vật được xem là vĩ nhân đất Việt. Trương Vĩnh Ký có xứng đáng không? Câu trả lời của Thụy Khuê đầy nghiêm khắc: Trương Vĩnh Ký xứng đáng nhận Bắc đẩu Bội tinh của xứ Đại Pháp.

Đồng ý hay không, trước nhất phải đọc những tài liệu mà Thụy Khuê tìm thấy.   [Trần Vũ]

Chương 11 – Trương Vĩnh Ký (1837-1898)

Phần VII: Cuộc xâm lăng của Pháp dưới ngòi bút

Trương Vĩnh Ký – Kỳ 1

Jean Bouchot, tác giả cuốn chân dung nổi tiếng về Trương Vĩnh Ký «Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898) (Một nhà bác học yêu nước người Nam kỳ: Trương Vĩnh Ký)[1], viết về công lao của Trương Vĩnh Ký, nhấn mạnh đến sự giảng dạy tiếng Pháp, viết sách sử địa để giáo dục thiếu niên và phục vụ những người Pháp đầu tiên đến cai trị Nam kỳ, qua thành quả vượt bực của những tác phẩm  mà ông Trương là tác giả:

“Trong nghị định ngày 20-2-1873, do đô đốc Pothuau soạn thảo [được ban hành] để cải tổ Đội ngũ Thanh Tra (Corps de l’Inspection) và thiết lập trường Hậu bổ (Collège des Stagiaires) dưới sự điều khiển của Đại úy Hải quân Luro, Trương Vĩnh Ký được bổ làm giáo viên dạy chữ quốc ngữ và chữ Hán. Những giáo trình của ông, do ban giám đốc trường này in thạch bản, hiện vẫn còn những bài giảng dễ hiểu và phương pháp nhất. Nhưng việc in ấn không chỉ giới hạn trong các giáo trình này; người ta nói rất đúng rằng, ông ta là người An Nam đầu tiên và duy nhất, trong một thời gian rất dài, đã cố gắng giảng dạy cho đồng bào của ông những điều cơ bản về tiếng Pháp với những sách giáo khoa chuẩn bị kỹ càng, hoàn toàn có khả năng phục vụ cho lợi ích của văn hóa chúng ta; nhưng phải công nhận rằng, song song với việc đó, con người không biết mỏi mệt này, qua việc dịch thuật khéo léo, trình bày ngắn gọn, cô đọng và có hệ thống những cuốn sách sử biên niên của An Nam và địa lý Nam kỳ, đã phục vụ đắc lực cho những nhà cai trị đầu tiên.

Thực thế, giữa 1863 và 1875, Petrus Ký cho in một loạt tác phẩm đáp ứng đúng nhất và đáng mừng nhất cho những đòi hỏi của thời đó” [2]. Sau đó Bouchot nói đến hai cuốn sách sử địa:

“Năm 1875, nhà in của Chính phủ địa phương [Nam Kỳ] in cùng một lúc hai cuốn “Petit Cours de géographie de la Basse-Cochinchine” (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ) “Cours d’histoire annamite à l’usage des Ecoles de la Basse-cochinchine(Giáo trình lịch sử An Nam dùng trong các trường ở Nam kỳ) đều gặt hái được những thành công vang dội.

Đặc ân dành cho hai cuốn sách này đây: Cuốn “Tiểu giáo trình địa lý Nam kỳ” tóm tắt cho những người ngoại quốc mới đến tất cả những yếu tố cơ bản liên quan tới vùng đất vừa mở cửa này, mà cho tới đó, họ chỉ mới khám phá qua những bản đồ vẽ từ thế kỷ XVIII của Dayot và Brun[3] hay đầu thế kỷ XIX của Giám mục Taberd. Tác giả [Trương Vĩnh Ký] lấy cớ viết sách cho học trò, nhưng trên thực tế, ông viết cho một công chúng rộng lớn hơn, luôn luôn biểu lộ sự tò mò ham biết đến độ đam mê. Tuy nhiên, dường như cuốn “Cours d’Histoire annamite” (Giáo trình Lịch Sử An Nam) chiếm được sự ủng hộ của tuyệt đại đa số.”[4]

Và Bouchot nhắc lại sự kiện: Trước khi cuốn Cours d’histoire annamite của Trương Vĩnh Ký ra đời, người Pháp đến Nam Kỳ không có sách gì ngoài cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức do Aubaret dịch sang tiếng Pháp năm 1863 dưới tên Histoire et description de la Basse-Cochinchine (Lịch sử và tả Nam Kỳ) và loạt bài Les Notes historiques sur la nation annamite (Những ghi chép lịch sử về dân tộc An Nam) của cha Legrand de la Liraye in trên báo Le Courrier de Sai gòn, cuối năm 1865.»[5]

Những thông tin này không sai, xác nhận Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên dạy sử và viết sách sử-địa về Việt Nam bằng tiếng Pháp, và ông đã trình bày ba điều cơ bản để quảng bá công trạng và chính nghĩa của Pháp khi họ đánh chiếm nước ta:

1- Bá Đa Lộc và các «sĩ quan» Pháp đã giúp Nguyễn Ánh dựng lại cơ nghiệp nhà Nguyễn.

2- Ba mươi thành trì ở nước ta, kể cả thành Huế và thành Thăng Long đều do các «sĩ quan» Pháp xây theo mẫu thành Vauban.

3- Nhà Nguyễn đã gây ra mọi «tội ác»: đặc biệt Minh Mạng tàn ác, bế quan toả cảng, giết đạo, khiến nước Pháp phải «can thiệp» vào Việt Nam để cứu dân, cứu đạo.

Đứng đầu và ra đời sớm nhất trong bộ sách sử địa này là Cours d’histoire annamite (Giáo trình lịch sử An Nam), in năm 1875 và 1879, hai cuốn, viết bằng tiếng Pháp, khơi mào cho những người viết lịch sử Pháp-Việt đi sau về ba điểm vừa nêu ra ở trên.

Năm 1885, Trương Vĩnh Ký công bố cuốn sách thứ hai, tiếng Pháp, xưng tụng công lao những người Pháp đã xây dựng các thành trì: đó là bài diễn văn ông đọc tại Trường Thông Ngôn tựa đề Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs” (Ký ức lịch sử về Sài Gòn các vùng phụ cận), nhắc lại «tội ác» của Minh Mạng và xác nhận lại rằng thành Gia Định do Olivier de Puymanel xây; mở đầu chiến dịch tuyên truyền: tất cả thành quách ở Việt Nam (gồm 30 thành trì, 8 thành do vua Gia Long đắp và 22 thành do vua Minh Mạng xây) đều là thành Vauban do các «sĩ quan» Pháp xây cả!

Xem thêm:   Khi đàn bà... ghen!

Năm 1891, Trương Vĩnh Ký cho in cuốn sách thứ ba, tiếng Việt, tựa đề: Biên tích Đức thầy Vê Rô giúp Đức Cao Hoàng phục nghiệp, tôn vinh công trạng Bá Đa Lộc đã «giúp Nguyễn Ánh dựng nghiệp» bằng cách bỏ tiền ra mua vũ khí và đưa các «sĩ quan» Pháp đến giúp Nguyễn Ánh thành lập quân đội, huấn luyện theo phương pháp của Tây và điều khiển cuộc chiến chống Tây Sơn đến thành công.

Với 3 cuốn sách nền tảng này, Trương Vĩnh Ký đã nhìn nhận Pháp như một vị cứu tinh mà ta phải ghi ơn: nước Pháp đã can thiệp vào Việt Nam để cứu giáo dân bị tàn sát, họ xây dựng các thành trì trong nước và đưa dân tộc ta ra khỏi trình trạng bị triều Nguyễn đàn áp, bóc lột.

Các sử gia Pháp, sau Trương Vĩnh Ký đồng loạt lặp lại những «sự thật lịch sử» trên đây. Rồi các sử gia Việt như Trần Trọng Kim, Phan Khoang… cũng tin những điều kết tội nhà Nguyễn của Trương Vĩnh Ký mà không nghiên cứu lại. Sự việc kéo dài cho đến năm 1997, ông Nguyễn Đình Đầu, tác giả bản dịch bài diễn thuyết Ký ức lịch sử về Sàigòn và các vùng phụ cận của Trương Vĩnh Ký, còn in thêm nhiều bản đồ của Pháp vẽ các thành Vauban để “minh chứngviệc các “sĩ quan” Pháp xây dựng thành Vauban ở Việt Nam; trong khi tất cả những thành trì còn nguyên vẹn của chúng ta, từ Huế đến Sơn Tây, đều không có gì là Vauban cả!

Ảnh hưởng của Trương Vĩnh Ký về lịch sử và địa lý thực vô cùng sâu rộng.

Là người có mặt trong buổi đầu khi Pháp đến xâm chiếm nước ta, Trương Vĩnh Ký nhận công tác viết lại lịch sử theo quan điểm thực dân và ông đã thành công trong nhiệm vụ người Pháp giao phó. Lịch sử Việt Nam, dưới nhãn quan của Trương Vĩnh Ký, không chỉ sai lầm từ thời Pháp xâm lăng, mà từ trước. Bởi lịch sử của một dân tộc, khởi đi từ rất xa, từ tên nước: Mà tên nước ta, từ thời tự chủ, trải các triều Lý, Trần, Lê, là Đại Việt. Gia Long đổi thành Việt Nam. Minh Mạng đổi thành Đại Nam, đó ba tên chính thức. Nhưng người Tầu vẫn tiếp tục gọi nước ta là An Nam, tên do nhà Đường đặt, để xác định một nghìn năm đô hộ của họ. Người Pháp lấy lại hai chữ An Nam này, để chỉ định sự chiếm hữu một trăm năm.

Trương Vĩnh Ký là sử gia Việt đầu tiên gọi tên nước là Annam. Đó là sự phản bội thứ nhất: phản bội quốc hiệu.

Gia Long với sắc lệnh 1804, đặt quốc hiệu là Việt Nam

Sau khi thống nhất đất nước, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long. Năm 1804, ông ban hai sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh 6-3-1804, xác định 5 điều cơ bản để dạy dân. Và Sắc lệnh 28-3-1804, đặt tên nước là Việt Nam:

– Ngày 31-5-1802 (1-5-Nhâm Tuất) Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Ngày 20-6-1802 (21-5-Nhâm Tuất), Gia Long rời Huế ra Bắc, đem hoàng tử thứ tư (sau này là Minh Mạng) đi theo, để hoàn tất việc thống nhất đất nước và giao miền Bắc cho Nguyễn Văn Thành quản trị. Ngày 24-10-1802 (28-9-Nhâm Tuất), Gia Long rời Thăng Long về Huế.

-Ngày 19-9-1803 (4-8-Quý Hợi) Gia Long ra Bắc nhận sắc phong của nhà Thanh. Ngày 29-11-1803 (16-10-Quý Hợi) đến Thăng Long, ngày 23-2-1804 (13-1- Giáp Tý), nhận sắc phong. Ngày 2-3-1804 (ngày Tân Hợi 21-1-Giáp Tý) vua rời Thăng Long về Huế [6].

Ngày 6-3-1804 (ngày Ất Mão 25-1-Giáp Tý), Gia Long về đến Thanh Hoa [Thanh Hoá] làm lễ tế tổ và hạ sắc lệnh quan trọng đầu tiên, tức là Sắc lệnh 6-3-1804, định điều lệ hương đảng cho các dân ở Bắc Hà, nhưng thực ra là để dạy dân 5 điều cơ bản:

1- Về tiết ăn uống.

2- Về lễ vui mừng.

3- Về lễ giá thú.

4- Về việc tang tế.

5- Việc thờ thần thờ Phật.[7]

Bốn điều đầu, có tính cách giáo huấn phong tục. Điều thứ năm, răn dạy tôn giáo: giới hạn sự truyền bá hai đạo Phật và Gia Tô.[8] Ngay buổi đầu triều, Gia Long đã nghĩ đến việc giới hạn ảnh hưởng của hai đạo này trong đời sống xã hội.

Ngày Mậu Thìn, 8 tháng 2 Giáp Tý, (19-3-1804), Gia Long về đến Kinh sư.

Ngày Quý Dậu, 13 tháng 2 Giáp Tý (24-3-1804), yết Thái miếu. Đặt quốc hiệu là Việt Nam.

Ngày Đinh Sửu 17 tháng 2, Giáp Tý, hạ Sắc lệnh 28-3-1804, chính thức đổi tên nước:

“… Ngày 17 tháng 2 năm nay [Giáp Tý], kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa…[9].

Xin nhắc lại sơ lược vấn đề quốc hiệu: Từ khi thoát ách đô hộ của Trung Hoa, nước ta đã có quốc hiệu là Đại Việt:

Ngày 1-10 năm Giáp Ngọ (1054), Lý Thánh Tông lên ngôi. Đặt quốc hiệu là Đại Việt[10]. Kể từ đó trải các thời đại: Lý, Trần, Hồ, Lê, Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn, Tây Sơn, đến khi Gia Long lên ngôi (1802) quốc hiệu này không thay đổi. Tên An Nam vẫn được người Trung Hoa sử dụng trong các văn bản sử sách, văn thư ngoại giao của họ. Người Việt, phần lớn chép theo sách Tàu, đôi khi cũng gọi nước mình là An Nam.

Nhưng kể từ ngày 17 tháng 2 năm Giáp Tý, tức là ngày 28-3-1804, Gia Long đặt tên nước là Việt Nam, không cho dùng hai chAn Nam, tượng trưng cho sự nô lệ cũ nữa.

Khi Minh Mạng lên ngôi, đổi tên nước là Đại Nam, tức Đại Việt-Nam. Là một học giả uyên bác, nhà vua đã nghiên cứu kỹ càng quyết định này và giải thích: Nước ta, từ thời Lý, Trần, Lê tên nước là Đại Việt. Tên này chỉ phần đất xưa với dân cư ở phiá Bắc [ý nói từ Thuận Hoá (Huế) trở ra Bắc] và phần đất Lĩnh Nam [tức Lưỡng Quảng] ngày trước của ta nhưng sau này trở thành đất Tầu. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hoá, xây dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn ở phương Nam và Gia Long thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc, thì bờ cõi nưóc ta đã hết sức mở rộng, tên Đại Việt không còn phù hợp nữa, phải đổi là Đại Nam.

Đại Nam Thực Lục viết:

“Mậu Tuất, Minh Mệnh năm thứ 19 [1838]. Mùa xuân, tháng 3, ngày Giáp Tuất [27-3-1838], mới định quốc hiệu là nước Đại Nam[11].

Xem thêm:   Câu chuyện tử tế

Dụ của vua như sau:

“…Nay bản triều có cả phương Nam, bờ cõi ngày càng rộng, một dải phía đông đến tận biển Nam, vòng qua biển Tây, phàm là người có tóc có răng, đều thuộc vào trong đồ bản, bãi biển xó rừng theo về cả, trước gọi là Việt Nam, nay gọi là Đại Nam, càng tỏ nghĩa lớn, mà chữ Việt cũng vẫn ở trong đó (…) Chuẩn cho từ nay trở đi, quốc hiệu phải gọi là nước Đại Nam, hết thảy giấy tờ xưng hô, phải chiếu theo đó tuân hành, gián hoặc có nói liền là nước Đại Việt Nam, về lẽ vẫn phải, quyết không được nói lại 2 chữ Đại Việt (…) phải lấy năm Minh Mệnh thứ 20 làm bắt đầu đổi chép chữ Đại Nam ban hành, để chính tên hiệu và khắp các nơi xa gần” [12]

Quốc hiệu Đại Nam được dùng tới thời Bảo Đại. Trong tế Nam Giao, văn tế mở đầu bằng câu:

“Đại Nam quốc, tuế thứ…

“Tiểu thần Nguyễn Văn B… phụng ngự chiếu của đức Việt Nam Hoàng đế, kế thế các Tiền triều liệt thánh…” [13]

Vua Bảo Đại xưng mình là Hoàng đế Việt Nam, có lẽ vì nước ta lúc bấy giờ đã bị Pháp chiếm, chỉ còn miền Trung thuộc triều đình, nên hai chữ Đại Nam của vua Minh Mạng không còn phù hợp, ông dùng chữ Việt Nam của vua Gia Long, và hai chữ này đến nay vẫn còn tồn tại.

Tóm lại, trong mọi hoàn cảnh, từ xưa đến nay, tên nước ta không bao giờ là Annam như Trương Vĩnh Ký ghi trong sách sử của ông.

Gọi tên nước là Annam

Được giao nhiệm vụ dạy sử cho học trò ở Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký đã tạo ra “một lịch sử mới”: Công nhận việc đô hộ là tất yếu, bởi vì Pháp là một nước văn minh, họ đến đây với “nhiệm vụ giải phóng” và “khai hoá” chúng ta. Điều đầu tiên để chứng minh nhiệm vụ cao quý này, là phải hạ thấp nước Việt bằng cách gọi tên nước với ngôn từ thuộc địa: Annam.

Chữ Annam, do người Pháp sử dụng để chỉ nước Đại Nam, là tên chính thức do vua Minh Mạng đặt. Pháp lấy lại tên An Nam đô hộ phủ của nhà Đường (618-939), ngụ ý nước Việt chỉ là một phủ của nước Tầu, và coi nước ta như một Annam đô hộ phủ của Pháp. Nhưng sự hạ nhục không dừng lại ở đấy, tệ hơn nữa: họ còn gọi người Việt là Annamite.

Trong tiếng Pháp, tiếp vĩ ngữ ite đặt vào đuôi một chữ, chỉ sự bị nhiễm trùng, như gastrite (nhiễm trùng dạ dầy), ở đây họ kết hợp ite với  chữ m trong Annam, thành mite, nghĩa là con bọ chuyên cắn quần áo (gián, nhậy).

Tóm lại: Cái tên Annam đã hạ thấp nước ta thành một phủ bị đô hộ như thời nhà Đường. Chữ Annamite coi người Việt là sâu bọ.

Phải đến năm 1954, khi Pháp hoàn toàn bị đuổi khỏi Việt Nam, ngôn từ của họ bắt đầu thay đổi, và họ dùng chữ Vietnamien, để coi người Việt là người: lúc ấy họ mới nhìn nhận chúng ta là người Việt. Tuy nhiên đến những năm 1960, khi chúng tôi sang Pháp, chữ annamite vẫn thịnh hành, và người Việt ở Pháp thường tự trào gọi mình là “mít”.

Một học giả như Trương Vĩnh Ký, tất hiểu lịch sử mỗi chữ mình dùng và biết rõ nguồn gốc, sắc thái của chữ đó, khó có thể chấp nhận từ Annam cho nước mình; vậy mà, không những ông là người đầu tiên dùng chữ Annam làm tên sách sử, mà ông còn đưa chữ annamite vào hầu hết những tên sách khác của ông, tức là không những ông chấp nhận tiền đề là nô lệ Pháp, mà ông còn ủng hộ việc họ coi người mình như gián, nhậy, đưa con chữ ô nhục này của họ lên tựa một số tác phẩm chính của ông:

– Abrégé de grammaire annamite,1867 [Tóm lược văn phạm An Nam].

– Contes annamites– Chuyện đời xưa, 1867.

– Cours pratique de langue annamite à l’usage du Collège des interprètes, 1868 [Bài giảng thực hành tiếng An Nam dùng trong Trường thông ngôn].

-Cours d’histoire annamite, 1875 1879. [Giáo trình lịch sử An Nam].

– Manuel des écoles primaires – Syllabaire quốc ngữ – Histoire annamite – Histoire chinoise, 1876 [Sách giáo khoa bậc tiểu học (dạy học trò trường Hậu Bổ) – Vần quốc ngữ – Lịch sử nước Nam- Lịch sử Trung Hoa]

Histoire annamite en vers – Đại Nam Sử ký diễn ca, 1875 [phiên âm sang quốc ngữ cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát, do Phạm Đình Toái biên tập].

– Cours de langue annamite autographiée, 1876 [Giáo trình tiếng Annam, in thạch bản]

Người bênh vực ông có thể cho rằng: sống dưới thời Pháp thuộc, ông bắt buộc phải dùng  chữ Annam annamite, như người Pháp.

Chúng tôi không nghĩ thế. Người Pháp, dù đi xâm lăng nước khác, nhưng họ vẫn là công dân một nước có truyền thống dân chủ từ cách mạng 1789, họ biết tôn trọng quyền chữ nghĩa của người khác. Trương Vĩnh Ký là người theo họ và được trọng dụng, phải có quyền dùng chữ. Ngoài ra, một người thành thạo chữ nghĩa luôn luôn có cách điều khiển ngôn ngữ theo đúng ý mình, tránh dùng những chữ có nghĩa xấu quá lộ liễu như annamite. Trương Vĩnh Ký, ngược lại, khi dịch những tên sách không dính dáng gì đến chữ annamite như Chuyện đời xưa hay Đại Nam quốc sử diễn ca, vẫn cố tình nhét chữ annamite vào, thành Contes annamites (Cổ tích An Nam), hay là dịch cái tựa Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát, bằng Histoire annamite en vers (Lịch sử An Nam bằng thơ).

Nếu ta xem lại tên sách của một số sử gia nổi tiếng người Pháp viết sau ông, vào thời kỳ nước Pháp đã làm chủ cả Đông Dương, họ bắt buộc phải dùng chữ Annam vì không có chữ nào khác, nhưng họ vẫn tránh hạ thấp người Việt:

Sử gia Charles Gosselin, tác giả cuốn L’Empire d’Annam (Đế quốc An Nam), in năm 1904.

Sử gia Charles B. Maybon viết cuốn Histoire moderme du Pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử hiện đại nước An Nam (1592-1820), in năm 1920.

Xem thêm:   Lá Thư Từ Kinh Xáng 1 (kỳ 12)

Sử gia François Guillemot, sau này, dùng tên Đại Việt để chỉ nước ta trên tựa sách của ông: Đại Việt indépendance et révolution au Việt Nam (Đại Việt, độc lập và cách mạng Việt Nam), in năm 2012.

Trương Vĩnh Ký tự ý chọn chữ An Nam, trong khi tiếng Việt có tới ba chữ: Đại Việt, Việt Nam hay Đại Nam, và ông dùng nhiều lần chữ annamite trong các tên sách của ông, khác hẳn với Huỳnh Tịnh Của, cùng thời, đã đặt tên bộ tự điển của mình là Đại Nam Quấc âm tự vị. Là học giả, chuộng sự chính xác, Huỳnh Tịnh Của dùng tên Đại Nam, là tên chính thức do vua Minh Mạng đặt.

Sau này Bảo Đại dùng cả hai tên Đại Nam và Việt Nam, rồi từ thời Bảo Đại về sau, có lẽ thấy Đại Nam không còn phù hợp với một giang sơn đã bị Pháp chiếm hơn một nửa, không còn là một lãnh thổ rộng lớn như dưới thời vua Minh Mạng nữa, nên chữ Việt Nam được nhiều người sử dụng và trở thành tên chính thức.

Cuốn Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình lịch sử An-Nam) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875, lúc đó triều đình Huế đã ký xong hòa ước Giáp Tuất ngày 15-3-1874, và theo hòa ước này, nước ta chỉ còn miền Trung là thuộc triều đình Huế, miền Trung được người Pháp gọi là Annam. Miền Nam đã mất hẳn cho Pháp, được họ gọi là Cochinchine (Nam kỳ) và miền Bắc là Tonkin (Bắc kỳ) sẽ trở thành thuộc địa bán chính thức của Pháp.[14]

Chiếm xong Nam Kỳ, Pháp chia nước ta làm ba phần và đặt tên như sau: Lục tỉnh, được họ gọi Basse – Cochinchine hay Cochinchine fracaise, tức là Nam kỳ thuộc Pháp. Miền Trung, thuộc triều đình Huế, họ gọi là Annam. Và miền Bắc được gọi là Tonkin (trên giấy tờ chỉ có Hà Nội là thuộc địa Pháp, nhưng trên thực tế đã do Pháp cai trị cả rồi).

Khi gọi tên nước là Annam, Trương Vĩnh Ký không những dùng chữ của người Pháp, mà ông còn chấp nhận việc bờ cõi nước ta thu gọn trong miền Trung.

Câu đầu bài Tựa cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (Lịch sử hiện đại nước An nam) của Maybon, in năm 1920, Henri Cordier viết: Trong một thời gian dài, cuốn “Cours d’histoire annamite” của Trương Vĩnh Ký, in năm 1875, là tác phẩm duy nhất mà độc giả người Pháp thể đọc được.”

Viết cuốn sử đầu tiên cho người Việt học, người Pháp đọc, Trương Vĩnh Ký dùng hai chữ Annam như tên chính thức của nước Việt Nam, và trong một bài dạy ngữ vựng, ông giải thích An Nam có nghĩa là miền Nam bình yên, tức là ông lờ hẳn lịch sử một ngàn năm đô hộ giặc Tầungụ trong chữ Annam, đồng thời chối bỏ cả ba quốc hiệu Đại Việt, Việt Nam, Đại Nam của các thời kỳ tự chủ, để nhận quốc hiệu đô hộ. Đó là sự đầu hàng Pháp và phản bội dân tộc, đầu tiên.

(còn tiếp)

[1] Cuốn Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898) (Một nhà bác học yêu nước người Nam kỳ: Trương Vĩnh Ký) của Jean Bouchot, do nxb Nguyễn Văn Của, in lần thứ ba tại Sài Gòn 1927, chúng tôi đã giới thiệu trong Chương 11: Trương Vĩnh Ký (1837-1898), phần III: Vinh dự lầm than.

[2] Bouchot viết tiếp: “Kho lưu trữ của gia đình ông cho biết: khoảng 1864, ông in cuốn “Abrégé de grammaire annamite” (Tóm lược văn phạm An Nam), bằng tiếng Pháp cuốn “Grammaire francaise” (Văn phạm tiếng Pháp) bằng tiếng Annam, sự thành công tức khắc của hai tác phẩm này, khiến sau đó, văn bản dành cho quần chúng bản địa, được in 2 lần liên tiếp. Rồi đến cuốn “Cours pratiques de langue annamite à l’usage du Collège des Interprètes” (Giáo trình thực tập tiếng Việt dùng cho Trường Thông Ngôn), ấn bản đầu tiên năm 1865, và những cuốn “Sơ học vấn đáp“(Notions élémentaires de conversation) được in dần dần từ năm 1871 đến 1894″. (Trích Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký, Chương II, tựa đề Les Débuts (Những bước đầu), trang 27-29)

[3]Dayot và Le Brun là hai người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê.

[4] Trích Jean Bouchot, trong cuốn Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898)Chương II, tựa đề Les Débuts (Những bước đầu), trang 27-29.

[5] Bouchot, Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898) trang 27-29.

[6] Đại Nam Thực Lục Tiền Biên Chính Biên, Tập Một, trang 491, 498, 529, 569, 572, 581, 582.

[7] Đại Nam Thực Lục Tiền Biên Chính Biên, Tập Một, trang 583-587.

[8] Những việc này chúng tôi đã nói đến trong chương 9, phần II.

[9] Đại Nam thực lục tiền biên chính biên, tập một, trang 588.

[10} Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập một, trang 280-281.

[11] Đại Nam thực lục, tập năm, trang 276.

[12] Đại Nam thực lục, tập năm, trang 276-277.

[13] Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, California, 1990, trang 132.

[14] Nói đến hai chữ Cochinchine và Tonkin, chúng tôi xin sơ lược nhắc lại nguồn cội hai chữ này, người Bồ đặt, người Pháp chép lại: ChCochinchine do người Bồ ghép hai chCochin (Kochi), tên một thành phố ở Ấn Độ với chChine, là vùng đất giữa Ấn Độ và Trung Hoa, để chỉ nước ta, lúc họ mới đến Đàng Trong. Chữ Cochinchine để chỉ Đàng Trong, thuộc chúa Nguyễn, tức miền Nam.Thời Tây Sơn gọi là Nam Hà. Thời Pháp thuộc gọi là Nam Kỳ. Chữ Tonkin, cũng do người Bồ phiên âm, khi họ đến Thăng Long, lúc đó có tên chính thức là Đông Kinh (tức kinh đô phiá Đông, để phân biệt với Tây đô, tức Thanh Hoá, là kinh đô phiá Tây). Đông Kinh được người Bồ phiên âm thành Tunkin, sau người Pháp viết là Tonkin. Chữ Tonkin vừa chỉ Thăng Long, vừa chỉ cả vùng Đàng Ngoài, thuộc chúa Trịnh, tức là miền Bắc. Thời Tây Sơn gọi là Bắc Hà. Thời Pháp thuộc gọi là Bắc Kỳ.