“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Ông bà xưa có nói “tiền nào của nấy” là nói cái thiệt, cái hơn, cái thứ, cái bậc trong một xã hội người ta chọn tiền làm căn bổn. Vậy mà đời nay, tui cũng nghe chú kể ở chỗ chú ở người ta áp dụng lời nói người xưa quá mạng.

À mà này, trong thơ nào chú cũng hay viết “mèn ơi!” là sao vậy chú Bảy? Không biết chú muốn dùng chữ này để tránh phải kêu “Trời ơi!”, vì sợ tội lỗi với Trời, với Đất? Động thứ gì mình cũng kêu trời gọi đất là vì mình hết đường kêu cứu ở cõi phàm trần, nên chắc không có Trời Đất nào trách phạt gì đâu! Phải vậy hông chú Bảy?

Loay hoay, tui cũng đã già bộn. Mới hôm kia tui đọc được mấy câu thơ lục bát của ông Hoàng Lộc trên tờ nhựt trình: “Biết từ cái nửa trăm năm, Thứ chi đã trải, đều lầm hết trơn!” Rồi tui ngồi ngẫm nghĩ lại mình, không biết cái chi đã lầm, cái chi còn xài được và cái chi nên nhớ, cái gì nên quên cho đời bớt phiền muộn ở tuổi già này!

Mới ngoắc ngoải mà viết cái thơ này cho chú cũng bộn. Ngoài trời mây đen và gió chướng đang kéo tới ào ào. Nước trên đồng đang lên thêm mấy tấc vì mấy trận mưa chướng hồi hôm. Nhìn cái nhà cũ long chong trên biển nước mùa lụt này tui đâm phát rầu, không biết nó bị mưa gió cuốn trôi đi lúc nào. Và tui nhớ chú! Thăm thím Bảy cùng sắp nhỏ mạnh giỏi.

Nay thơ,

Hai Trầu

Tình chòm xóm

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 7 năm 1999.

 

Mến gởi Cô Út Lục Tỉnh,

Hôm trước cắt gặt lúa mùa lỡ xong, tui tính viết thơ cho cô Út hay số lúa mấy đứa con tui đem vô bồ mùa này để cho cô yên bụng. Tính bổ đồng, công lúa trúng trừ qua công lúa thất, công lúa lung bù qua công lúa gò, mỗi công vị chi được hai mươi lăm giạ Cô Út à. Hàng xáo đi mua lúa dập dìu. Mỗi giạ lúa tốt bán cũng được ba mươi hai ngàn đồng. Nhưng lúa giá nào thì hàng hoá cũng chạy theo lên giá nấy.

Cô Út thử tưởng tượng một ký-lô thịt ba rọi giá thường ngày hết hai mươi tám ngàn đồng rồi, nên một giạ lúa bán rồi cũng không mua được gì nhiều. Thậm chí cà phê cà pháo tui cũng đâu dám uống thường vì cà phê đá sơ sơ cũng phải một ngàn rưỡi. Còn hủ tiếu hoặc phở bình dân cũng năm ngàn một tô hoặc mình muốn ăn tô đặc biệt cũng phải bỏ ra mười một, mười hai ngàn mới thưởng thức được mùi vị của món ăn gọi là đặc biệt này.

Xem thêm:   Việt Nam! Việt Nam!

Vị chi một giạ lúa bán ra mà gặp mấy cái bụng thanh niên, con trai miệt ruộng, miệt kinh xáng này ăn chưa được ba tô hủ tiếu đặc biệt thì túi cũng khô rang không còn một đồng dính túi. “Thắt lưng buộc bụng” nhưng cái bụng tóp rọp, buộc hoài mà cũng không có đồng dư, đồng để Cô Út à! Tính tới tính lui, mấy đứa con tui ngâm năm ba lít gạo rồi xay làm bánh khọt, bánh xèo ăn được nhiều người mà lại thêm cái tình chòm xóm khắng khít thêm.

Số là ở miệt quê mình, gạo có sẵn nên muốn ăn món bánh nào là cứ ngâm gạo là có món bánh đó. Bánh đúc lá dứa chấm nước đường mía thắng kéo chỉ cũng ngon. Bánh chuối chấm nước cốt dừa cũng béo. Bánh da lợn, bánh bèo, bánh bò, bánh cúng, bánh ít trần, mỗi thứ mỗi ngon. Còn nhiều thứ bánh nữa, miễn có gạo là có bánh.

Bánh nào cũng là món ăn chơi cũng như ăn thiệt, đều hấp dẫn cái bụng nhà quê ráo trọi Cô Út à! Giả tỉ món bánh xèo thì lấy gà làm nhưn. Trộn thêm mớ bông điên điển, hoặc giá đậu xanh, hoặc củ sắn dây sắt mỏng là có món nhưn bánh xèo hấp dẫn. Gặp mùa tôm làm bánh xèo nhưn tôm. Vào mùa chuột làm bánh xèo nhưn chuột. Rau trong vườn không thiếu món nào. Từ rau thơm, húng cây, húng nhũi là rau trồng cho tới rau càng cua, đọt bằng lăng, lá lụa, đọt xoài đầy trong vườn. Vậy là có một bữa bánh đãi đằng hàng xóm xôm tụ rồi Cô Út.

Ở dưới kinh xáng này cũng như nơi ruộng nương, một nhà làm bánh là cả xóm cùng được mời đến ăn cho vui. Khách khứa cứ “tự nhiên như người Long Xuyên”, vì chủ nhà mời là mời thiệt tình, ít có ai mời lơi, mời cho có mời lấy lệ. Nên nhà nào làm bánh ngó quanh ngó quất, dòm trước dòm sau chỉ có vợ chồng con cái xúm lại mà thiếu bà con chòm xóm, chủ nhà buồn lắm. Nhiều lúc họ còn tủi thân, lo lắng mình ở đời chắc có gì khiếm khuyết nên lối xóm không muốn giao du với mình.

Thành ra, thời buổi vật giá mắc mỏ, mình cũng liệu lượng bồ luá, lu gạo mà xài cho nó vừa đủ. Bởi vậy mới có câu khuyên mấy chị bớt bớt ăn hàng, ăn bánh: “Vạn vật mỗi món mỗi ngon, nhòn nhòn cái lỗ miệng cho chồng con nó nhờ!” Mèn ơi, chắc Cô Út phản đối câu ngạn ngữ này vì nó đụng chạm đến mấy bà, mấy cô quá mạng! Nhưng nói gì thì nói, không thể không có chòm xóm láng giềng, người thân kẻ cận. “Bà con xa không bằng láng giềng gần” mà! Đây là câu nói của ông bà xưa để lại cho con cháu nhiều đời mà để ý giữ cái tình chòm xóm cho bền bỉ, phòng khi “tối lửa tắt đèn” đặng tương thân tương ái với nhau lúc khó khăn, hoạn nạn.

Nhà thuốc Vạn Hòa Đường An Giang ngày nay – nguồn Facebook 

Mèn ơi! Từ hơn mười ngày nay tui đau bộn. Số là Cô Út có gởi dìa cho tui vài chai thuốc nhỏ con mắt bị xốn vì mây thịt mọc thiếu trật tự, gần tới con ngươi. Trong thơ cô dặn cách dùng và cần cữ rượu vì thuốc này mạnh. Tui sơ ý, nên mỗi lần bị xốn là tui nhỏ lu bù. Thay vì một giọt, tui nhỏ hai ba giọt. Thay vì ngày ba cữ, tui nhỏ không cần phân cữ, phân bận gì ráo trọi. Hễ xốn là lấy thuốc ra nhỏ, cứ thế làm tới hoài. Có hôm mấy đứa nhỏ xào món rắn bông súng với lá cách thơm phức, nên tui lai rai hết hai ba ly xây chừng rượu thuốc mua ngoài tiệm thuốc bắc Vạn Hoà Đường, muốn quắc cần câu. Vậy mà rồi tui bị lậm thuốc nghe cô Út. Nhức đầu quá là nhức như có ai cầm cái búa đập lên đầu. Tui lo quá là lo!

Xem thêm:   Câu chuyện tử tế

Thêm cái sợ nữa là sao trong người hơi hảo mệt nên mấy đứa nhỏ đưa tui đi bác sĩ ngoài Long Xuyên. Ông bác sĩ Phước bắt mạch, vạch hai con mắt rồi ông phán một câu làm tui hoảng hồn: “Ông anh đây dùng lậm thuốc.” Rồi sau đó ổng bảo tôi nằm lại phòng mạch để ổng vô cho chai nước biển giải độc. Đồng thời ổng khuyên tui ngừng nhỏ thuốc để ổng cho tui loại thuốc khác nhẹ hơn.

Trời thần ơi, thuốc ở bên chỗ Cô sao mà mạnh quá mạng. May không thôi tui lại xí lắt léo rồi, còn đâu mà ruộng với nương, kinh xáng với kinh xiếc gì nổi nữa. Tui cũng cảm động lắm cô Út à, chú Tám quán Cây Me, anh Hai Láng Linh, anh Ba Sinh, anh Năm Mỹ, chú Ba Dũng, người nào cũng tới thăm rần rần…

Thế mới biết cái tình chòm xóm nó quý báu hơn bạc, hơn tiền, hơn kim cương, ngà ngọc. Có đau mới thấy anh em thăm nom mình, nó quý hơn cả ngàn thang thuốc bổ ngoài tiệm thuốc bắc Vạn Hòa Đường. Tui cũng cảm ơn cô Út nữa. Lo cho anh Hai chết sớm nên loan báo tùm lum khi cháu gái của cô, con gái tui, cho cô hay tui bịnh nhiều, nguy cấp.

Trời Phật cũng thương cái thân ốm yếu này, nên đã ra tay tế độ nhiều phen trên rừng, trên rẫy, trên ruộng, trên đồng. Bây giờ thêm một lần tế độ nữa, cứu tử huờn sanh! Mấy đứa nhỏ con tui, tụi nhỏ mừng lắm cô Út à, nói gì chị Hai của cô mừng muốn khóc dù “lận đận theo chồng” hoài!

Mới khỏe khỏe, viết thơ cho cô hay tin tức bên nhà, vậy mà cũng dài bộn. Tôi ngừng ở đây để ngày mai coi có lết lại nhà ông Tám tại Vàm Ba Bần xem truyền hình trận chung kết giải túc cầu thế giới giữa hai hội banh phụ nữ Mỹ đá với Tàu, chắc có nhiều pha đi bóng, nhiều cú đá bay hồn, nhiều trái banh đá vô gôn mà thán phục cái tài chụp banh của đàn bà, con gái thời tân tiến bây giờ mà tản thần hồn!

Chị Hai của cô cũng gởi lời thăm cô mạnh khoẻ. Hôm nào thiệt mạnh, tui viết cái thơ khác cho cô. Nhưng nói thiệt với cô Út, anh Hai cũng ngán tiền cò quá mạng! Mỗi cái thơ sơ sơ cỡ 4 gờ-ram, cũng mất mười hai ngàn ba trăm đồng, gần bằng một thùng lúa hột vê sạch, phơi khô bán cho hàng xáo dưới sông! Mà ngán thật!

Xem thêm:   Ông Năm Yersin

Cuối thơ,

Hai Trầu

Chút tình nơi xứ xa

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 9, năm 1999.

 

Thơ gởi chú Sáu,

Hôm rồi, mấy đứa em tui có gặp chú Sáu, rồi chuyện trò thăm hỏi qua lại nên mới biết quê ngoại của chú ở miệt dưới này, còn gốc gác bên nội thì ở tuốt trên Bình Dương, Thủ Dầu Một. Và nó có viết thơ kể lại cho tui tự sự gặp người quen như vậy.

Thấy chú chỗ chòm xóm láng giềng, dù láng giềng bên ngoại, nên em út mến chú rồi đem hết mấy chục lá thơ tui viết cho sắp nhỏ để chú đọc chơi. Ai dè, chú đọc thiệt, rồi lại còn ngồi cặm cụi viết cho tui cái thơ dài quá mạng mà tui mới nhận hồi hôm qua. Cái thơ của chú dài tới hai trang, tui đọc có cả chục bận, mà bận nào cũng như bận nào, tui cũng thấy trong lòng cảm kích lắm chú Sáu. Càng đọc càng thấy cái tình của bà con lối xóm khi tối lửa tắt đèn nó quý vô cùng, vô tận.

Ngã 6 Thủ Dầu Một, trước nhà thờ Phú Cường xưa – nguồn nhacxua.vn

Ở miệt quê mình cái tình láng giềng như chú Sáu tỏ bày trong thơ chú gởi cho tui vậy đó chú Sáu. Người này nghe người kia đau nhè nhẹ là chạy qua thăm. Còn trường hợp đau nặng là bà con chạy tới rần rần. Kẻ đốt lửa hơ cho ấm, người cạo gió giác hơi, người xoa dầu cù là, kẻ bứt lá chanh lá sả nấu nồi thuốc xông cho nhẹ cái đầu, xuất mồ hôi giải cảm. Người có bắt được con cá, mang cho con cá. Người có hộp dầu cù là đem cho mượn hộp dầu cù là. Nếu phải chở đi nhà thương hoặc thầy thuốc, không ai nệ công nệ cán gì ráo. Kẻ có xuồng, có máy đuôi tôm thì đẩy xuồng xuống bến mà gắn máy chạy ào ào miễn sao cho kịp tới nhà thương, tới thầy thuốc là mừng. Trường hợp trong kinh trong rạch gặp mùa nước cạn, lòng rạch khô rang là lập tức thanh niên trai tráng hè nhau nhảy xuống bùn mà đẩy xuồng đẩy ghe để kịp cứu người bịnh nặng, không so đo hơn thiệt gì ráo trơn ráo trọi.

Sống ở nhà quê là sống bằng cái tình đơn sơ như vậy đó chú Sáu! Không đầu môi chót lưỡi, không chuốt ngót đẩy đưa cho vừa lòng bạn. Mà cho dù rủi có giận chín xe mười vàng, nhưng khi người mình giận lỡ bị đau yếu nặng, không ai nỡ vô tình ngoảnh mặt làm lơ như người dưng nước lã… Bởi vậy, chú nghe tui bịnh rồi hỏi thăm và chú làm tui cảm kích tấm thạnh tình của chú dữ lắm!

Chú Sáu  à,

Chú cứ căn dặn tui đừng có cười chú vì đọc ké thơ tui gởi cho mấy chú của sắp nhỏ trong nhà. Thiệt tình, trước lạ rồi sau quen mà chú Sáu! Bà con chòm xóm với nhau không hà, đâu phải ai xa lạ đâu mà tui lại dám cười. À mà nầy, hồi nhỏ chú kể là chú có theo má dìa quê thăm ngoại, vậy bây giờ ông ngoại, bà ngoại của chú chắc cũng già lắm rồi hả chú? Ở miệt dưới này mà ở khúc nào? Ngoài sông sâu nước chảy hay cặp lộ xe hơi?

(còn tiếp)