Trận đồi Charlie được biết đến nhiều nhất qua bút ký chiến trường của Phan Nhật Nam. Tuy nhiên Mùa Hè Đỏ Lửa trên cao điểm C với tất cả bi hùng đặt trọng tâm vào Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Thiếu tá Lê Văn Mễ, Đại úy Đoàn Phương Hải (Ban 3 Tiểu đoàn), Đại úy y sĩ Tô Phạm Liệu cùng Thiếu tá cố vấn John Duffy. Diễn biến trận đánh như thế nhìn từ Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù. Hồi ký của Trung úy Nguyễn Văn Lập cho góc nhìn khác: Từ vị trí của một tiền sát viên pháo binh tăng phái nhìn trận đánh ở cấp thấp hơn, đặc biệt cho thấy cách bố trí trận địa cùng pháo yểm của VNCH. Chi tiết hơn trong danh sách các sĩ quan, cũng chi tiết hơn trong diễn tiến trước-trong-sau trận đánh so với Mùa Hè Đỏ Lửa, “Charlie Ngày ấy…” là một tài liệu hiếm.
Quân lực VNCH gọi Tiền sát viên pháo binh là “đề-lô”, ra từ chữ viết tắt DLO của thuật ngữ ban đầu “Détachement de Liaison et d’Observation (DLO)” của Quân đội Pháp mà dịch sát nghĩa là “Toán Liên lạc và Quan sát”, về sau cải biên thành “Détachements Légers d’Observation d’Artillerie (DLOA)”, tức “Liên Toán Nhẹ Quan Sát Pháo binh”. Biến âm thâu gọn thành “Đề-Lô”.
Vào thời điểm Điện Biên Phủ, một Tiểu đoàn Lê Dương hay Nhảy dù Thuộc địa chỉ có 1 tiền sát viên pháo binh nhưng Tiểu đoàn 11 Nhảy dù của Trung tá Nguyễn Đình Bảo được cắt cử 4 Tiền sát viên pháo binh cho 4 đại đội, thêm một Sĩ quan Liên lạc Pháo binh ở Đại đội Chỉ huy nói lên cường độ pháo khốc liệt trong Nội chiến Nam-Bắc. Cũng nói lên yếu tố quyết định trận đánh nằm ở pháo binh.
[Trần Vũ]
Nguyễn Văn Lập
Để kính nhớ cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi. Để tưởng nhớ đề-lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie… Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này… (Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập)

4 kỳ – Kỳ 1
Charlie bây giờ
Ngày hôm nay, khi chúng tôi lại một lần nữa đến viếng ngọn đồi đã lừng-danh này. Cũng là ngôi mộ mang tên Charlie chôn kín niên-trưởng Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu-đoàn 11 – Song Kiếm Trấn Ải – con sói đầu đàn của Sư-đoàn Nhảy Dù. Cùng bao chiến-sĩ Dù thuộc cấp của Ông.Từ một người phụ-nữ lam-lũ với đồng-áng, nương, rẫy, đến những người hành nghề Honda ôm tại Pleiku, Kontum nói chung, ở Sa-châu nói riêng v.v. tất thảy họ đều biết ngọn đồi Charlie. Họ sẽ chỉ-dẫn rất tận tình và rõ ràng những chi tiết cho những ai muốn đến nơi đó.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH trên “địa linh” CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa 1972, Hẳn trong dân chúng miền Tây-nguyên đã không bao giờ biết đến nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo và các chiến-hữu của Ông đã định danh cho nó rồi: Đồi CHARLIE.
Nếu trên Quốc lộ 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây), rồi mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu. Nhưng khởi hành từ Kontum chúng ta đi, thì tới ngã ba Trung-chính chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie (Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và Charlie, thì chúng sẽ tạo ra một hình tam-giác mà Charlie là đỉnh có cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân cư Sa-châu, được nhìn từ Sa-bình cách Sa-châu 9 cây số.

Charlie ngày ấy
Tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề-lô cho dễ tác xạ, và bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dễ hiểu.
Tiếng động cơ trực thăng và tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp xuống. Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi “hấp” tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giữa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yểm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bãi đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ C-123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi (tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình như là Trung úy Ðỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC 4522, còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lãnh hai đề-lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Sàigòn, thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 thì lại được một công điện về trình diện Tiểu đoàn 11 của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này. Ðầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn bè về “vùng 5” da ngựa bọc thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã sẵn sàng đợi Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi lại nhớ Sàigòn, những bữa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Ðịa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Võ Ðịnh, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù của Thiếu tá Bùi Ðức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Ðoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề-lô chúa là Trung úy Lưu Văn Ðúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề-lô Ðại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn úy Sơn danh hiệu 312, đề-lô Ðại đội 112 của Ðại úy Hùng móm. Chuẩn úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Ðại đội 113 của Ðại úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập (là tôi) danh hiệu 314, đề lô Ðại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Ðại đội 110 của Ðại úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng Bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yểm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yểm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, một cuộc tapi khốc liệt sẽ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dãy Trường Sơn.

Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quảng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc đó cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dã chiến Long Khánh về trình diện Thiếu tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Sàigòn coi như một đặc ân về Pháo binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ (hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về hướng Nam, con sông Poko màu bạc uốn khúc theo dãy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dãy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vỡ. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bãi đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Ðại đội 113 (Ðại úy Hùng mập) nằm phía Bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Ðại đội 111 (Trung úy Thinh) thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Ðại đội 110 (Ðại úy Nho), 112 (Ðại úy Hùng móm), và 114 (Trung úy Phan Cảnh Cho) đóng quân tại căn cứ C2 cùng dãy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam-Bắc khá thẳng để dễ quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẽ ra các ngã vào 3 biên giới Việt-Miên-Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nỗ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chặn cuống họng xâm nhập vào tỉnh Kontum qua ngã Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một ngàn mét. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Ðại đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế thoai thoải dễ đánh lên, và ngoài phòng tuyến cỡ 50 mét có nhiều cây cao rất dễ cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Ðại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn hình chữ nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến tìm chỗ đào hầm, tôi nói tôi yểm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của Cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến tìm chỗ đào hầm, còn máy PRC-25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 (Pháo đội D1) tác xạ phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng 100 mét (có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đã giữ được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Ðêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dãy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa Cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối (harrasing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắc chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 đã chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi, Thiếu tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
– 418 đây 314 xin tác xạ. Hết!.
– 314 đây 418 xin tác xạ. Hết!
– Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng. Hết!
– Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết!
Ðộ hai phút sau.
– Bắn. Trả lời.
– Bắn. Hết!
Tiếng pháo nổ. Thiếu tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ.
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói. Hết!
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết!

Thiếu tá Lê Văn Mễ
Ðến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét (tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mỗi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến lửa phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc. Ðạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ cách quãng). Lính Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1 AK, 1 CKC, và tìm được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sĩ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng départ đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa nghe tiếng départ là nổ liền. Nhảy Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Ðịch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chặn.
– 418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẵn sàng. Hết!
Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đã sẵn sàng bắn chặn. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mảnh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gãy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rõ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn chặn địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:
-Thiếu tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này, mình giữ nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, mình dứt nó liền.
Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Ðại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Ðức với tôi bị mảnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xả. Tôi sát tai Lạc nói:
– Tao xin lỗi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái này, còn tụi nó không dám tấn công nữa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chặn nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mỉm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bã hỏi tiếp:
– Mày thấy thế nào.
– Ðau, không còn cảm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tĩnh như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
– Một lần nữa, tao xin lỗi mày.
Nói xong tôi bò lại phía Thiếu tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tản. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dễ thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Ðiềm gì đây, hay là ông đã linh cảm được điều gì.
(còn tiếp)










