“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Bên này là cánh đồng chạy về miệt Sóc Xoài, Lỳnh Quỳnh, bên kia là những vách đá không cao nhưng rậm rạp cây cối hoang vu làm chú nổi hứng làm thơ. Có lần chú đọc cho tôi nghe hai câu thơ này, tui nghe sao mà giống như  thơ thiệt, mà tới bây giờ tui còn nhớ, nhưng cũng tới bây giờ tui mới hiểu cái chí hướng của chú:

“Tiều phu gánh củi về ngang núi,

Trăng chiếu lưng đồi một bóng soi!”

Chú Tám Đạo à,

Nhớ chú là nhớ hai câu thơ này, nhớ những ngày anh em mình vác củi qua núi Ba Thê thăm thẳm con đường mòn, có ai biết ở đó cái bóng lẻ loi của người “tiều phu gánh củi về qua núi” in lên trên vách đá cheo leo giữa đồng bằng …

À, mà này, những ngày đó chú cũng kể cho tui với chị Hai chú nghe về cái quê Quảng Nam của chú, nào là Hội An, Điện Bàn, Duy Xuyên, Cẩm Lệ, Tân Thạnh, Kim Đới, Tam Thăng, Cẩm Chánh, nào là Hòa Châu, Hòa Xuân, Hòa Tiến, Hòa Phước, Hòa Quý thuộc vùng núi Ngũ Hành Sơn, nào là hàng tre Nghi Hạ, núi Nghi Sơn…

Tôi nghe chú kể mà nhớ hồi còn nhỏ, lúc tía tui sanh tiền, mỗi năm vào tháng gần Tết, có một cụ già râu tóc bạc phơ, tướng cao ráo khí phách từ miệt Quảng Nam hay Huế gì đó thường vô thăm tía tui, có khi ở lại chơi cả tháng mới “dìa ngoải”… Tụi tui gặp ông vô là mừng lắm, cứ chạy theo mừng “ông nội”. Lần nào “ông nội” cũng mang theo cao hổ cốt, kẹo gương, quế khâu cho tía. “Ông nội” thường kể chuyện vùng núi Ngũ Hành Sơn, chuyện vua chúa triều Nguyễn, chuyện Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị… Và lúc bấy giờ còn nhỏ quá nên tui không hiểu gì nhưng tui thấy Tía tui với “ông nội” vui lắm mỗi lần ngâm nga những bài thơ Đường luật. Lần nào “ông nội” về, tía tui cũng chuẩn bị tiền bạc để cho ông nội đi xe và uống trà.

Bẵng đi khá lâu, “ông nội” không còn vô kinh xáng Bốn Tổng nữa. Tía tui nói chắc ông nội già yếu rồi. Kế đến thời cuộc đổi thay, tui bị tù tội, tía tui chết. 5 năm sau, má tui cũng chết theo. Và tui bặt tin ông nội ngoài Trung luôn, chắc ông cũng đã chết lâu lắm rồi chú Tám à! Mỗi lần nhớ tía má tui là tui cũng nhớ ông nội ngoài Quảng Nam đó với bộ râu bạc dài tới ngực, chiếc nón lá có gắn cái chóp bằng đồng, cái gương mặt hiền hiền nhưng đầy cương nghị như một kẻ sĩ không gặp thời vậy đó chú Tám!

Núi Ba Thê

Bây giờ, những nơi chú kể cho tui nghe hồi năm nẳm, ngoài đó bị bão lụt dữ nghe chú! Người ta chết nhiều lắm. Nghe đâu tới 167 người chết tìm kiếm được xác. Còn mất xác là không tính được. Ở ngoài chú, chú có nghe nói bão tố không? Chắc là có nghe mà, vì bây giờ văn minh lắm. Tui ở trong kinh xáng nước cạn quê mùa mà còn nghe, còn biết huống hồ gì chỗ chú ở, nghe nói nó văn minh nhất hoàn cầu mà!

Xem thêm:   Những người di tản cuối cùng

Cái xứ mình thiên tai gì mà như cơm bữa chú Tám à! Từ năm Thìn bão lụt tới giờ, lúc tui chưa có, đến khi tui được sanh ra, lớn lên rồi bây giờ tui già, năm nào cũng có tai Trời. May thì ít, rủi lại nhiều. Áo quần chưa kịp vá, kịp mạng mà “màn trời chiếu đất” ở đâu trên đầu chụp xuống kín mít hoài, dân tình có nước chết trôi chết nổi với nạn Trời…

Hồi năm ngoái, bão “linh đa linh điếc” gì đó gây tang thương cho dân tình Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau biết thiên trùng nào mà kể!!! Bây giờ tai ách lại ra ngoài Quảng Nam, miền Trung của chú. Khổ ơi, là khổ! Kêu mãi không thấu chú Tám à!

Thôi, lan man mà cái thơ dài quá là dài. Nhớ chú quá là nhớ, nhắc cái này gầy cái khác, nói hoài còn hoài, cho anh Hai ngừng ở đây để ăn ba hột cơm rồi lên ruộng với tụi nhỏ chuẩn bị mùa sạ tỉa mấy công đất lung kiếm cơm đắp đổi qua ngày…

Cho tui gửi lời thăm thím Tám và sắp nhỏ. Nghe nói chú có 3 đứa rồi hả chú? Mới đó mà cũng lẹ quá mạng. Thắm thoát cũng 18 năm chứ phải chơi, kể từ ngày anh em mình gặp nhau ở bến xe đò Long Xuyên lúc biển dâu dời đổi!

Nhớ trước, quên sau, chú Tám cho tui “gạnh” thêm câu hỏi này nữa nghe chú:  “Bây giờ chú còn làm thơ phú gì không chú Tám?” Hôm nào rảnh rang tui viết cho chú cái thơ khác nhe!

 

Cuối thơ,

Hai Trầu

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày 2 tây

Mùa nước lụt

tháng 11 năm 1998.

 

Chú Ba bầy trẻ,

Dường như đã lâu lắm rồi, tôi mới lại ngồi viết thơ này cho chú vì lo ba cái vụ nước nôi ngập lụt, tràn bờ tràn đập. Hầm cá bị nước ngập lé đé mấy bữa rày, nhất là con nước rằm tháng Tám. Bồ lúa cũng sình sụp vì cái sàn nhà bị nước ngập làm cho nó lún xuống, nghiêng một bên. Nhìn tới ngó lui, mọi vật chung quanh vườn tược như lúc nào cũng đang nằm khơi khơi trên mặt nước vào mùa lụt lội này… Loi ngoi lóp ngóp lắm chú Ba à!

Rồi sáng nay, thằng Tấn con của chú Hai Tâm trên Chắc Cà Đao bơi xuồng vô tui mời đám giỗ ông ngoại nó vào ngày mùng mười tháng Chín. Con cháu mà nó có lòng nghĩ tưởng đến mình, không ngại nước nôi lênh láng mà mời mình, nếu mình phụ lòng nó là mình không còn biết thế nào là lễ nghĩa nữa phải hông chú?

Ở nhà quê mình, coi vậy mà nhất nhất việc gì cũng có cái lễ nghĩa trong đó nghe chú Ba. Gặp nhau chào hỏi là giữ lễ. Kính nhường là giữ lễ. Trên thuận dưới hòa là giữ lễ. Biết giữ tôn ti trật tự từ trong nhà ra tới ngoài đường là giữ lễ… Người già có cái lễ nghĩa riêng của người già, người trẻ giữ cái lễ nghĩa riêng của người trẻ… Xem vậy, việc lễ nghĩa là việc trọng.

Xem thêm:   Miệng Nhà Quan ngày 25 tháng 9 năm 2025

Mình ở quê có cái dở là chậm chạp, quê mùa nhiều lúc như ngu, như dốt so với ba cái văn minh khắp hoàn cầu, nhưng bù lại, ở đây cái nền nếp lễ nghĩa vậy mà nó vững vàng cũng đỡ đỡ…

Cha mẹ thì việc con cái thờ kính là đạo đương nhiên rồi! Còn cô bác ra  cô bác, chú ra chú, anh ra anh, chị ra chị, em cháu ra em cháu là cái giềng mối rạch ròi rồi, không ai dám đi ra ngoài cái đạo ấy được. Người nào làm trái lại, người ta chê cười có nước độn thổ mà đi… Đó là cái lễ nghĩa trong gia đình.

Còn chòm xóm, bạn bè, bằng hữu việc giữ lễ nghĩa nó cũng quan trọng dữ lắm chú Ba. Mình mà vô tình để thất lễ với người trong xóm một lần là người ta cứ nhắc hoài nhắc hủy, có khi suốt đời, không làm sao lấy lại cái tiếng tốt được. Ở nhà quê, có lần tui nói với chú coi vậy mà cư xử, ăn ở với nhau nó khó lắm!

Chú Ba bầy trẻ,

Nước lên rồi mưa dầm, lầy lội quá mạng. Vậy mà rồi tui cũng biểu mấy đứa nhỏ bơi xuồng ra Chắc Cà Đao dự đám giỗ ông ngoại thằng Tấn hôm mùng mười tháng Chín. Ông ngoại thằng Tấn là cậu ruột của mình. Bà con mà không lui tới nhau, càng ngày càng xa là vậy. Cho nên hồi Tía Má còn sống, lúc ngồi uống trà hay ăn trầu, tui nghe cha mẹ hay nhắc: “Bà con ngày một xa, sui gia ngày một gần” để chỉ cái tình ruột thịt nó lợt lạt khi mình ít tới lui thăm lom nhau, rồi mất gốc, mất nguồn mấy hồi.

Chú Ba bầy trẻ à, có đến đó mình mới thấy cái lễ nghĩa của em cháu nó thờ phượng cho ông bà nó, nó đối với chòm xóm, nó đối với cô bác, nó đối đãi với mình, mình đâm ra phục lớp hậu sinh nghe chú.

Việc cúng kiếng, dù nó còn nhỏ nhưng nó làm cũng tươm tất lắm chú Ba à. Một mâm cúng cửu huyền thất tổ, một mâm cúng ông bà, một mâm cúng đất đai viên trạch, một mâm cúng cô bác khuất mặt và một mâm hậu thường để dành cúng vào buổi chiều.

Rồi nhang đèn, cúng ba tuần rượu, anh em con cháu, lớn trước nhỏ sau, cứ thế mà tuần tự van vái cúng lạy ông bà cho đến khi con cháu cúng xong, không còn thiếu đứa nào là đến phần cúng bánh, nước trà, giống y như hồi ông bà còn sống ăn cơm xong là trà nước vậy.

Chú Ba à, dù cúng kiếng mâm này, cỗ kia như vậy chỉ là việc hình thức mà ông bà không bao giờ đòi hỏi con cháu phải lo lắng tốn kém, nhưng cái hình thức nhỏ mà không làm được thì cái lòng hiếu đễ làm sao mà giữ được!

Tui dìa nhà cứ nói đi nói lại với mấy đứa cháu trong nhà để cho tụi nhỏ nó học cái gương lễ nghĩa đó, mà từng tuổi này tui còn phải phục và mừng.

Người đời thường cho rằng: “Cồng cộc bắt cá dưới sông, mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ.” Nhưng đâu phải lúc nào cũng đúng một trăm phần, phải hông chú? Nội ngoại “tương tề” mà!

Xem thêm:   Boston mùa thu hái cranberry

Không có gì vô phước cho bằng con cháu trong nhà mà không biết lễ nghĩa, không biết thưa trình trên trước, không biết kính nhường trên dưới, không biết tưởng nhớ tổ tông, rồi để đời cái tiếng vô lễ, bất nhân, bất nghĩa trên miệng thiên hạ trong xóm, trong làng khó mà gột rửa cho sạch được!

Thời buổi này, mình nói chuyện lễ nghĩa, nó xưa như cái tuổi già cũ mèm của mình chú Ba. Nhưng nước ngập tràn đồng như cái biển, ở nhà quê mình mà không nói chuyện lễ nghĩa cho sắp nhỏ thì còn nói về cái gì lý thú hơn bây giờ phải không chú?

Nền văn minh vật chất như nước tràn bờ, còn cái “nếp nhà” ở nhà quê như căn nhà sàn trên vùng nước ngập, không biết nó trôi theo nước lúc nào! Phải vậy hông chú Ba? Mấy hàng thăm chú thím và sắp nhỏ.

 

 Cuối thơ,

 Hai Trầu

Lúa nhiều mùa

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 12 năm 1998.

 

Chú Ba bầy trẻ,

Mấy hôm rày, hèn lâu, tui mới lại viết thơ thăm chú thím và sắp nhỏ. Lâu quá là lâu như vậy vì lo cắt lúa mùa mưa hổm rày. Bây giờ ở nhà làm lúa tới ba mùa chứ không phải như ngày xưa chỉ một mùa, hai mùa như lúc chú còn ở nhà.

Làm nhiều, chi phí nhiều, cũng chẳng được bao nhiêu chú Ba à! Nào phân, thuốc sâu, thuốc cỏ, mướn cày bừa, cắt gặt đâu cũng vào đấy, “mèo lại huờn mèo”, lúa cũ đổi lúa mới, có khi còn lỗ công nữa đó chú!

Ở đời này, “tận nhân lực” mới “tri thiên mạng” nhưng đất bùn mà tận dụng quá, đất cũng thành chai cóng, chẳng còn nhựa, còn phân phướng gì, nên phải xài phân hoá học. Hễ cái gì mà tận dụng quá rồi có ngày sẽ kiệt quệ. Mà lúa Thần nông này cũng kỳ quá chú, không có phân lạnh, phân tiêu đen, phân tiêu sữa, phân kali mà nhà quê mình còn gọi nôm na là “phân muối ớt” thì lúa như con nít thiếu sữa, thiếu cơm, không lớn, không nở nang nổi.

Vậy mà bắt đầu có rải phân sương sương là có bươm bướm, có sâu thấy mà ngộp. Hết đợt này tới đợt khác, hết loại sâu này tới loại sâu khác, triền miên, hà rầm, nhiều lúc chạy tiền không kịp mà mua ba cái thuốc sâu, thuốc rầy.

Đó là tui nói mình may mắn còn chút ít tiền, còn uy tín nên mới hỏi han, mượn chác được đầu trên xóm dưới chút đỉnh để mà mua thuốc trừ sâu. Chứ nếu không, cũng phải vay hỏi với tiền lời bạc mười, bạc mười lăm, bạc hai mươi, cũng đành cam chịu. Nếu không có tiền là sâu ăn rụi hết, chứ chẳng chơi.

Tui nhắc sơ sơ mấy loại sâu để chú nhớ cái nghề làm ruộng lắm ba chìm bảy nổi này, nào sâu keo, sâu lá, sâu ống, rầy cám, rầy nâu. Đó là tui chưa kể lúa bị bịnh đạo ôn, bịnh ung thư, bịnh đốm lá, lúa ngã, lúa sập, lúa rực lá chưn, chuột bọ, cỏ gạo có đuôi, cỏ chát, cỏ bông, lác, u du, cỏ chỉ, cỏ lông heo và trăm thứ cỏ khác… Trăm thứ là trăm họa cho người làm ruộng, mà thứ nào cũng phải dùng thuốc hết mới diệt được những cái họa này nghe chú. Tiền thôi là tiền!

(còn tiếp)