Ngày 10 tháng 4-1972, tình hình vô cùng nguy ngập trên căn cứ Charlie. Trung đoàn 52 là Trung đoàn Tây Tiến trong thơ Quang Dũng tràn ngập cao điểm C1 của Trung úy Thinh. Đại đội 111 phải rút lên C2 nơi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn 11 Dù. C1 ở giữa C3 (Đại đội 113 của Đại úy Hùng mập) và C2 (Đại đội 112 của Đại úy Hùng Móm + Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho + Đại đội Chỉ huy 110 của Đại úy Nho), có nghĩa là Tiểu đoàn 11 Dù đã bị xé đôi. Sáng 11 tháng 4, Đại đội 112 cố gắng tái chiếm C1 nhưng không thành. Ngày 12, Trung tá Bảo tử trận, ngày 13 Trung úy Thinh, Trung úy Khánh, Chuẩn úy Ba, Trung sĩ Lung tử trận… Lễ thiêu sinh bắt đầu.
Trong phần trước của hồi ký, Trung úy Nguyễn Văn Lập đã giận dữ quở trách Trung tướng Ngô Du tư lệnh Quân đoàn II đã không cho triệt thoái, khiến Tiểu đoàn 11 Dù liên tục hứng pháo vô ích vì không thể thực hiện nhiệm vụ vừa kiểm soát quốc lộ 14 vừa quan sát gọi phi pháo hủy diệt quân xa Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh ven biên giới sát ngay cạnh; cũng không thể ngăn Sư đoàn 10 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam uy hiếp Tân Cảnh (Dakto).
Yếu kém của Quân lực VNCH không ở dàn sĩ quan trung cấp mà ở hàng tướng lĩnh. Những tướng tài như Đỗ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Phan Trọng Chinh… đếm trên đầu ngón tay. Số đông còn lại là các vị tướng xuất thân quân đội Pháp ít tác chiến chỉ đóng đồn, chưa đánh trận lớn, rồi tự phong chức cho nhau sau các cuộc đảo chánh. Đại tướng Trần Thiện Khiêm đánh trận nào mà lên Đại tướng? Trung tướng Lê Nguyên Khang đánh những trận nào trước khi làm tư lệnh TQLC? Các Trung tướng Trần Văn Đôn, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan chưa nhiều trận mạc. Vì sao Đại tướng Cao Văn Viên ghi danh theo học Văn Khoa giữa lúc chiến tranh sôi sục? Ở cương vị Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, ông dư thời gian vì ít công việc hay sao? Hay mộng cử nhân văn chương lấn át bận tâm chiến trường? Chương trình huấn luyện của các trường võ khoa Nam Định, Huế, Đà Lạt ban đầu có 9 tháng, tập trung đào tạo Trung đội trưởng nhưng không dạy về học thuyết chiến tranh hay thuật hành binh và đặc biệt không phân tích các trận đánh trong chiến tranh Việt-Pháp tuy cùng một kẻ thù, cùng dàn tướng lĩnh Cộng sản đó đang tấn công Miền Nam với cùng một phương pháp, cùng chiến thuật, chiến lược. Trung tướng Ngô Du, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng Cao Văn Viên thụ huấn chương trình 9 tháng này. Các tướng lĩnh Cộng sản ngược lại rất dầy dạn chiến trận sau 9 năm đánh nhau với Pháp.
Charlie, là sai lầm của suy nghĩ tin có thể ngăn chính quy Bắc-Việt bằng vài tiểu đoàn Dù trên vài mỏm núi.
[Trần Vũ]
4 kỳ – Kỳ 3
Nguyễn Văn Lập
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo vào căn cứ, và sau loạt pháo là đánh thăm dò tiếp Ðại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mỗi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Ðại đội 114 cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mỗi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nữa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mảnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có cảm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Ðại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không còn vướng một cọng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào đâu… Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Sàigòn chịu chơi tới đâu thì chịu, chứ ra trận có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui thì… mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù (Thiếu tá Lê Văn Mạnh) ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Ðại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Ðịch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nỗi phẫn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mỗi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó thì có một người lính giơ tay ngoắt tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng đông, tây, và nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Ðại đội 111 (Trung úy Thinh), chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nữa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung úy Cho biết và xách máy PRC-25 gọi 415 (Căn cứ 5) bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề-lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.

Chân dung tưởng niệm Đại tá Nguyễn Đình Bảo với vũ khí Việt cộng tịch thu trưng bày trên sân vận động Hoa Lư, ĐaKao.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẽ đánh Charlie vì Ðại đội 111 nằm riêng rẽ còn thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai trung đoàn địch (Trung đoàn 52 Tây Tiến và 64 Quyết Thắng cùng một tiểu đoàn của Trung đoàn 48 Thăng Long) quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Ðại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dữ dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Ðại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hàng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai trung đoàn này thì còn những trung đoàn khác sẵn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu “Quyết Thắng” của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của 11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110 (Đại đội của Ðại úy Nho). Máy bay yểm trợ cho Charlie thì phải bay từ hướng bắc hoặc hướng nam rồi đánh một vòng về hướng tây để thả bom, xong phải chúc mũi về hướng đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. Mỗi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh của ta thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẽ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dễ lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Ðến giờ phút này thì đã rõ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Ðại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt đợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yểm trợ được, định mệnh đã dành sẵn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Ðộ nửa tiếng sau, Trung úy Thinh Ðại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại:
– Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba-lô của ta, chúng chụp được ba-lô của tôi, tôi buông ba-lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẽ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba-lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại chỗ (thường là khi rút lui, ta mang theo ba-lô trên lưng đề phòng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái la bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẽo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng còn bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp “hùng tâm” này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp chỉ huy của chúng dã man như thế nào.
Sáng ngày 11/4/1972, Ðại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie (C1) đem theo cả đại bác không giựt 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm; máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chỗ hai cây phòng không, bị gãy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng đội, sau khi xác định được vị trí, bèn quay trở lại Charlie, giận dữ trút xuống những trái bom lửa còn lại. Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.

Trung tá Nguyễn Đình Bảo đeo kính ở giữa
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cày lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cỡ gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê-tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghĩ đến một điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mỗi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Ðức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này… Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Ðúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Ðoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gãy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung Tá Bảo hy sinh còn Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo sấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì đo bằng từng nắp bi-đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dữ quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ra ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Ðúng và Trung úy Ðúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Ðại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc tìm bãi đáp, còn Ðại đội 111 lên ngọn đồi phía Ðông xem có chỗ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẻ nghiêm trọng, không còn cái giọng Nha Trang đơ đớ Quảng Ngãi nữa, không thấy có vẻ đùa cợt hàng ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chỗ vị trí hai cây phòng không cách đó không xa và nói:
– Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giữ im lặng.
Ðộ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chỗ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung úy Thinh, Ðại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm xuống… cánh dù lộng gió muôn phương – vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Ðại đội 111 thêm lần nữa tan hàng. Một số còn lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giữ mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Ðêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn úy Sơn đề-lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dữ dội, địch xung phong lên từ phía Ðại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Ðại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Đại úy Ðoàn Phương Hải trưởng Ban 3, giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung úy Ðúng đứng kế bên, cạnh đấy là bác sĩ Tô Phạm Liệu, một bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giữ vững vị trí, tôi nghĩ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của ta vẫn giữ được. Chỗ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều mảnh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bỗng Hạ sĩ Hạnh chạy tới chỗ tôi nói:
– Em kiếm Trung úy nãy giờ, thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung úy.
Tôi cúi chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy đất cát. Tôi cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:
– Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giữa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối còn nghĩ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:
– Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem còn bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh, để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chỗ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rõ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Ðây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả lựu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bỗng một viên đạn AK bắn trúng bình khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cỡ chục mét. Tôi thấy rõ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận” tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám đuổi theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nữa sợ lộ vị trí, vả lại chúng đã lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được liền bắn chặn không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành bình địa. Ðại đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức bãi bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M197 Gatling từ phi cơ OV10 (North American Rockwell OV-10 Bronco) rót đều phía sau chặn hậu, nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến thì không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người còn lại này chia đều mỗi người đã lãnh cỡ gần 100 trái đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu đó một câu nói của danh tướng Mỹ McArthur: “Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại còn phải gánh chịu những bất công của thượng cấp”. Nghĩ lại hoàn cảnh của 11 Dù còn tệ hại hơn thế nữa, bị trói tay để đánh.
(còn tiếp)








