Từ 1971 bộ binh Bắc-Việt chiếm ưu thế trên ba mặt hỏa lực, chiến thuật và hành binh.
Hỏa lực: Nếu trọng liên 12 ly 8 của Bắc-Việt tương đương đại liên 12 ly 7 M2 Browning của VNCH thì cỡ đạn 7 ly 62 của AK47 có sức công phá mạnh hơn cỡ đạn 5 ly 56 của súng M16, chưa kể AK47 bền hơn, dễ bảo trì, sau “lội” sình vẫn bắn được. VNCH sở hữu súng phóng lựu M79 có sức sát thương lớn nhưng ống phóng hỏa tiễn M72 không đa năng, tầm xa ngắn với sức hủy diệt không bằng B40 và B41 của đối phương.
Trong lĩnh vực súng cối, với cỡ đạn 82 ly lính Bắc có thể dùng đạn cối 81 ly của VNCH, trong lúc phía Cộng hòa không thể dùng lại đạn 82 ly tịch thâu được cho súng cối 81 ly của mình. Bên cạnh hỏa tiễn 122 ly và SA-7 cầm tay, bộ binh Bắc-Việt còn được tăng cường đại bác phòng không 37 ly hoặc 56 ly có thể bắn trực xạ vào mục tiêu trên mặt đất. Phía VNCH ở cấp tiểu đoàn trang bị duy nhất 1 đại bác bộ binh 54 ly hoặc 1 súng không giật 90 ly. Chênh lệch lớn nhất ở pháo binh: Đại bác 130 ly M46 Trung cộng tầm bắn 27 km đến 38 km vượt xa tầm bắn 15 km của pháo Howitzer 155 ly Hoa Kỳ. Pháo binh Cơ giới 175 ly của VNCH quá nặng nề cồng kềnh, nhịp bắn quá chậm và cũng chỉ có vài pháo đội.
Chiến thuật: Ngay từ trong chiến tranh Việt-Pháp quân Cộng sản đã hình thành Sư đoàn Công Pháo theo mô hình Sô-Viết, tập trung pháo, cối nặng để chi viện cho chiến trường. Song song là việc thành lập các tiểu đoàn độc lập thuần súng cối 82 hoặc 120 ly và những đại đội súng không giật SKZ 75 ly để yểm hỏa cho các đơn vị chủ công. Khác biệt thứ nhất trên mặt chiến thuật là VNCH sử dụng súng cối như vũ khí phòng thủ trong lúc Bắc quân dùng súng cối như vũ khí tấn công. Một tiểu đoàn VNCH chỉ có 4 súng cối 81 ly, trong lúc 1 tiểu đoàn súng cối Bắc-Việt vận chuyển 36 súng cối 82 ly vào sát mục tiêu. Khác biệt thứ nhì là pháo binh VNCH tác xạ từ vị trí cố định, ngay cả khi một pháo đội được trực thăng Chinook hay Skycrane câu đến một đỉnh đồi, thì sau đó pháo đội đó tác xạ tại chỗ cho đến hết hành quân. Việc thiết lập các căn cứ hỏa lực khiến pháo binh VNCH đóng tại chỗ mà không di chuyển. Phải lâu về sau các Lữ đoàn Dù mới hành quân với 1 Tiểu đoàn Pháo binh Dù đi kèm, với pháo 105 kéo bằng quân xa nhưng đại bác 105 ly tầm xa 10 km không đủ xa để phản pháo vào vị trí pháo Bắc-Việt.
Hành binh: Từ 1971 Quân đội Nhân dân hành binh cấp quân đoàn từ 2 đến 3 sư đoàn trở lên, mỗi mũi dùi là một sư đoàn mà đơn vị hành quân căn bản là trung đoàn (3 tiểu đoàn). Trừ ba trận Cam-bốt, Hạ Lào và tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Quân lực VNCH hành quân cấp lữ đoàn, liên đoàn hoặc trung đoàn hay chiến đoàn mà đơn vị căn bản là 1 tiểu đoàn. Việc điều động nguyên Sư đoàn 21 từ Miền Tây lên giải vây An Lộc là hiếm.
Khi Tổng thống Thiệu tuyên bố: “Không nhường một tấc đất cho Cộng sản”, phương châm đó ảnh hưởng lên sách lược quốc phòng phải dàn mỏng quân ra để giữ đất khiến không thể tập trung nhiều đại đơn vị cho một trận đánh. Làm sao phòng thủ 1,600 km rừng núi chạy dọc biên giới Miên-Lào từ Hà Tiên lên đến Khe Sanh? Là lý do vì sao trên trận địa VNCH luôn bị áp đảo về mặt quân số.
Tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên quên mất lời cảnh cáo của hoàng đế Frédéric Le Grand: “Dans la guerre qui veut tout défendre, ne défend rien/ In War who wants to defend everything, defends nothing.” (Trong chiến tranh ai muốn phòng thủ khắp nơi, sẽ không phòng thủ được gì hết) mà Trung tá Paul Vanuxem giảng dạy trong Khóa 1 Tham mưu ở Centre d’Études Militaires Hà Nội mà Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên là học viên.
[Trần Vũ]
4 kỳ – Kỳ 2
Nguyễn Văn Lập
Sáng ngày 27/4/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giữa Ðại đội 112 và 114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Duffy, cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi:
– Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Ðịch xuất hiện khá xa cỡ bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 (Pháo binh Căn cứ 5) tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cỡ 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói:
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
– Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa.
Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả (Fire for Effect). Tôi đề nghị:
-Ðề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông, mình làm một lần “đưa em vào hạ, dưới cội đa”.
Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK do.

Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T (Time On Taget) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nữa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Ðức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn Mông Cổ nhà ta (anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ) thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường tình. Tiếng đạn pháo nổ tới tấp. Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Ðến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dãy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Ðại đội 112 bắn qua, tiếng départ cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 (danh hiệu của Chuẩn Úy Sơn, đề-lô Ðại đội 112) để trả lễ rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiễn 122 ly thi nhau rót xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó chưa có đề-lô, anh em đề-lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bữa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh pháo binh chụp toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề-lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
– Tôi nghĩ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta (đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số, và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi), chỗ mình dễ lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó, qua máy tôi cũng chia sẻ mối âu lo này với Trung úy Ðúng:
– Tụi nó chắc chắn sẽ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp.
Trung Úy Ðúng nói:
– Tôi cũng nghĩ như vậy, chỗ của 314 dễ lên lắm.
– Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẽ 75 ly hoặc 57 ly của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy thằng 312 gáy (xin bắn).
– 314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt chữ “Hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề-lô Ðại đội 112 bị pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Ðại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ (tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mỗi lần pháo tầm xa pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 (Trung úy Lưu Văn Ðúng) xin mỗi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở bò (pháo binh) nào của ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.

Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mỗi ngày cỡ ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiễn 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo? Lúc này Ðại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn II Dù ở Căn cứ Võ Ðịnh cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá, nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Ðoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực… tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Ðại Ðội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Ðồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn Cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà Cộng sản đã lên án tử hình Ðại úy Trương Văn Út, Ðại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ 130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn II cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa được di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Thương binh, mấy chục binh sĩ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tải thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mỗi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắc chết hết vì pháo.
Sáng sớm ngày 1/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Ðại đội 114. Ðịch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề-lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yểm trợ. Lúc này đã lộ rõ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may nhờ việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên còn rảnh tay yểm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của Cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn [1] có biệt danh là “quả đấm thép” đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Ðại đội 114 anh dũng bắn trả, Ðại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẵn sàng gom bi.
– 415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẵn sàng. Hết!
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng départ, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
– Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết!
Ðạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hễ dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lĩnh bắn che cho tốp khác từ hướng Tây Nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẵn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:

L’Enfer des Hommes, phim chiếu ở Sàigòn năm 72
– Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả lời:
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng, lỡ có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dữ quá. Sau mỗi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm tính gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nãy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cỡ 50 mét, những núi lửa bốc lên cao sau mỗi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám cho thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách mình hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cỡ hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả đều sẵn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy (tức pháo binh còn bắn), thì không có tên răng đen mã tấu nào có thể bước qua 114 được. Sở dĩ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mãnh của anh em 114 Dù (Đại đội của Trung úy Phan Cảnh Cho) cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến lâu rồi. Còn Trung úy Ðúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112 (Ðại Úy Hùng móm). Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng départ từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nỗi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẽ tràn biển người lên lấy thịt đè người, “Nhảy Dù cố gắng!”, “Nhảy Dù cố gắng!”, tôi lẩm bẩm bốn chữ đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em chúng tôi hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của chúng tôi. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310 (Trung úy Lưu Văn Ðúng, trưởng toán “đề-lô”):
– 310 có nghi tụi đề-lô nó áp sát mình không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà nào của mình “quởn” cho gáy vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không thì đã nhào lên tiếp để… lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ra phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi Căn cứ 5 và Căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi!
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây băng đạn từ lúc nào (hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).
– Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lữ đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sĩ “L’enfer des Hommes” tức là những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Sàigòn hay sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Michel (Tổng Lãnh Thiên Thần Michel là thánh bổn mạng của binh chủng Nhảy Dù VNCH).
(còn tiếp)
Ghi chú của Trần Vũ
[1] Là Sư đoàn 320A nguyên là sư đoàn cũ của Văn Tiến Dũng về sau thăng Đại tướng chỉ huy chiến dịch Mùa Xuân 1975. Trung đoàn “quả đấm thép” là Trung đoàn 64 phiên hiệu Quyết Thắng. Đánh Charlie còn có Trung đoàn 52 là Trung đoàn Tây Tiến trong thơ Quang Dũng và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 48 phiên hiệu Thăng Long (2 tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 48 đánh Tiểu đoàn 2 Dù của Thiếu tá Lê Văn Mạnh trên cao điểm Delta). Ba trung đoàn này thuộc Sư đoàn 320.









