“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).
Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.
Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)
Anh Bảy ơi,
Từ ngày tui đi nhà thương khám con mắt bị mây thịt cồm cộm tới nay cũng được mười ngày, nhưng sao vẫn cồm cộm hoài, giống như hồi nhỏ tui với anh xuống sông lặn hụp cút bắt, móc bùn chọi lộn, giả đánh giặc bị bùn văng vô hai con mắt đỏ như tôm luộc. Tui nhớ bác Ba gái kéo anh lên đánh cho một trận tản thần hồn. Còn tui sợ bị đòn lây nên cũng vắt giò lên cổ trốn trong cây rơm tới trời chạng vạng mới mò về lục ba hột cơm nguội. Nghĩ lại ngày ấu thơ vui quá hở anh Bảy?
Bà bác sĩ nói tại mình ở cái xứ trời nắng quá mạng nên hai con mắt phải sanh ra mây thịt để chống đỡ với ánh nắng mặt trời chói loà như vậy, nhưng không sao. Bả dặn tui nhỏ thuốc đều đều cho đỡ xốn.
Vậy mà, ngày tháng trôi qua vù vù, anh em mình đứa nào cũng già ráo trọi. Anh một nơi, tui một nơi, thăm thẳm xa vời. Nhưng dù sao, anh cũng còn bông bắn, nhậm lẹ, trí óc sáng sủa, viết văn, viết chương nữa. Nghe sắp nhỏ kể mà tui phát thèm, phát phục. Tui thì “ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch”, không làm nên trò trống gì mà còn thêm nặng gánh gia đình nên nhiều lúc tui cũng mệt mỏi quá anh Bảy à!
Bên kinh xáng mình lúc này mới mưa được vài trận. Cá lóc, cá rô bắt đầu dợm mé lên đồng tìm lung vũng cũ quậy vùng, quậy ổ để sanh sản cho kịp mùa. Ngồi ngẫm nghĩ mà trời đất vạn vật tuần hoàn ăn khớp với nhau quá anh Bảy, không sai chạy đi đâu được! Tui cũng đang vót bậy mớ nang tre để bện mấy cái lọp tép đặt cặp vòng ranh, theo mấy cái cựa gà, nơi ngã ba nước chảy để kiếm tép rong, cá chạch mà cầm thực cho đám cháu nội. Con nít nó ăn mặn lắm anh Bảy.
Anh Bảy còn nhớ không, nhà nào đông con cháu như nhà tui, vô mâm cơm, con nít nó dợt qua vài đũa là ngồi ăn cơm không với nước mắm chong chịu trận. Mình già rồi, con cháu nó lo cho mình món cá, món mắm nhưng con cháu đông quá, thấy con cháu nó ăn uống thiếu hụt nên mình ngồi ăn đâu có ngon lành gì. Thương cho sắp nhỏ là thương vậy!
Anh Bảy,
Suýt chút nữa là tui quên nói cho anh hay là tui đã nhận được cái thơ của anh gởi cho tui mấy bữa rày. Cả nhà xúm nhau đọc, vui lắm. Nghe anh kể ở bển, ngày nào anh cũng vào quán cà phê Cây Me của chú Tám. Khách khứa đông quá là đông. Nam thanh nữ tú ngồi chật bàn, chật ghế. Vậy tui cũng mừng cho anh có giờ giấc rảnh rang mà cũng mừng cho chú Tám sắp nhỏ.
Anh có nhắc đã gặp thầy giáo Vy, hồi trước ra dạy học trường trung học Diên Khánh, Nha Trang, mà hồi nẳm tui cũng hay lui tới ngoài đó. Anh lại kể có gặp vợ chồng thầy Nguyễn, vợ của thầy Nguyễn là người gốc gác Tân An. Mới hôm trước tui theo ghe chở gạo của thằng út đi ngang qua Thủ Thừa, quẹo vô ngã Bến Lức, dòm cây cầu đúc cao mút con mắt in mấy chân cầu xuống con sông Vàm Cỏ Đông trong leo lẻo. Được biết vợ chồng thầy Nguyễn bây giờ lấy chuyện văn chương làm vui tuổi già, nên mới gặp nhau ở tiệm cà phê, thiệt là một thú vui tao nhã.
Anh còn kể gặp cô con gái, con của thi sĩ họ Hoàng nữa. Nghe đâu hồi trước cô này học tiếng Tây trên Đà Lạt, nên nói tiếng Tây như gió phải không anh Bảy? Hồi trước, lúc còn nhỏ, tui mê Đà Lạt gì mà kỳ lạ. Cái xứ sương mù của người ta, mà mình cứ nhớ như nhớ nhà mình không bằng! Anh Bảy có biết tại sao không? Cũng tại vì cái chân hay đi đó đi đây, mà cái bụng lại nhẹ dạ nữa, nên ai nói ngọt là mình mê mệt liền hà anh Bảy à!
Đà Lạt đồi thông. Đà Lạt với mấy cô gái má hồng sương muối! Đà Lạt tình tứ lắm. Hoa lá, chim muông như ngủ vùi dưới cái lạnh nhẹ nhàng đủ để bận cái áo ấm, những đôi trai gái tình tứ đi bên nhau dọc theo bờ hồ Xuân Hương, Sân Cù, thác Cam Ly, chợ Hoà Bình và còn nhiều lắm anh Bảy à, nhắc một hồi chắc có nước nhớ mà chảy nước mắt bây giờ!
À này, anh cũng nhắc trong cái thơ có cái cô Giáng Tiên, giống như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, vui quá hả anh? Và chú Bảy Luân ở Cây Gõ cũng có nữa. Nghe anh nói ai cũng hỏi thăm và cầu chúc con mắt của tui mau lành, làm tui cảm động quá chừng!
Vậy qua cái thơ này, anh chuyển lời lại giùm, cho tui có lời cám ơn các anh chị, em út về cái tình cảm quý hoá này nghe anh Bảy. Không biết chừng nào tui mới báo đáp lại được đầy đủ tấm thạnh tình của quý anh chị em đây!?
Cái thơ vòng vo Tam quốc cũng khá dài, vậy xin hẹn anh lại thư sau nhe anh Bảy. Kính thăm anh và gởi lời thăm chị Bảy cùng sắp nhỏ mạnh giỏi. Hôm nào anh có quay dìa thăm lại Láng Linh, anh nhớ báo tin cho tui biết trước để tui sai sắp nhỏ lo ghe xuồng lên rước anh dìa kinh xáng này nhậu cho đã tình một bữa nhe anh Bảy!
Cuối thơ,
Hai Trầu
Làm ruộng như đi tu
Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng 5, năm 1999.
Thơ gởi Chú Sáu Minh,
Mấy bữa rày, tui phải bơi xuồng đi tới đi lui để đưa Chú Bảy Luân đi câu cá trên miệt Vọng Thê, cánh đồng Ba Thê, mới dìa thì được cái thơ của Chú gởi tới chú Sáu Minh à. Tui vội vàng tắm rửa, cơm nước với Chú Bảy Luân đâu đó xong xuôi, tôi mới mở cái thơ của Chú ra coi. Tôi đọc đi đọc lại cả chục bận mà cứ như chưa hiểu hết cái bụng của Chú.
Số là Chú hỏi tui dưới này ruộng đất có dễ khai mở không? Tui có thể giúp Chú dời dìa dưới kinh xáng Bốn Tổng để theo tui học cái nghề làm ruộng hông? Chú hỏi tui có thể cho Chú mượn cái quạt mo của thằng Bờm không? Ở dưới miệt Kinh Bốn Tổng có bông ô môi nở mùa này hông? Theo Chú thì bông Ô Môi đẹp và thơm hơn “một rừng hoa đào ở bên Mỹ” nữa. Và còn nhiều câu hỏi nữa, tui tạm chép ra mấy câu như vậy để Chú nhớ lại vì phòng hờ không biết Chú sao chép lại hông?
Chú Sáu Minh à,
Đi mấy ngày với Chú Bảy Luân cũng muốn đừ nhưng vui thiệt là vui, vì hai anh em vừa câu cá vừa nhậu lai rai để thấy đời còn có người tâm sự, hiểu nhau lúc già cả này. Nhưng đọc cái thơ của Chú Sáu bầy trẻ, tui đang băn khoăn trong bụng. Bộ trên Biên Hòa làm ăn không khá hay sao mà Chú muốn về chỗ khỉ ho cò gáy này để mần ruộng với tui vậy Chú Sáu? Việc đồng bái tuy không cần phải thông tường cho lắm nhưng mình cũng phải kiên trì thì mới đặng Chú Sáu à.

Vàm kinh cũ
Để tui kể sơ sơ cho Chú nghe như vầy, coi Chú có thích hông. Chẳng hạn mình phải biết phân biệt đất lung, đất gò, đất phèn, đất sét thì mới chọn giống chọn phân cho nó hạp. Còn cỏ rác cũng vậy nữa Chú Sáu à, Chú phải biết tên các loại cỏ để mà mình chọn thuốc diệt cỏ mà xài. Ví như cỏ mồm lông, cỏ mồm đắng, cỏ ống, cỏ chỉ, cỏ lông heo, cỏ gạo, cỏ chát, cỏ cú, hoặc như năn, lác, rau dừa, rau muống, rau chay, me đất, cỏ xước, nghể,…. mỗi thứ có mỗi thuốc trị Chú à. Nếu không có thuốc nào trị nổi thì mình phải dùng tới thuốc mười ngón tay của mình. Chắc Chú định hỏi “thuốc mười ngón tay là thuốc gì vậy anh Hai?” Sẵn đây tui nói ra luôn cho rồi để Chú khỏi suy đoán lòng vòng. “Thuốc mười ngón tay” là mình dùng hai bàn tay để nhổ cỏ đó mà!
Sơ sơ như vậy, mà tui thấy cũng ngán rồi, nói gì đến Chú từ hồi nào tới giờ chưa quen chuyện ruộng nương. Chẳng hạn như việc cày bừa, sạ cấy, dặm vá, cắt gặt, tủ rơm, đốt đồng, xịt sâu, rải phân, trăm thứ trăm cực, chẳng thứ nào giống thứ nào Chú Sáu à.
Mà khó cái nữa, là chữ nghĩa Chú học còn có bài vở, thầy bà dạy Chú học, chứ việc ruộng nương này làm là “làm theo thuở ở theo thời”, không thời nào giống thời nào dù cùng cái nghề mần ruộng như nhau. Chú thử nghĩ cái thời ông Nội của tui nó khác, đến đời tía tui nó lại khác, rồi tới cái đời tui bây giờ nó lại khác nữa, nói gì tới con tui, cháu nội của tui, mà cũng không có ai ghi chép lại hết Chú Sáu à. Chú Sáu dìa đây tui cũng mừng là có anh, có em để hủ hỉ cho đỡ buồn, nhưng tui lại sợ Chú buồn thúi ruột vì Chú không quen cái nếp sống đồng quê.
Với lại, mần ruộng này cũng như tu nghe Chú chứ chẳng chơi. Tui lấy cái thí dụ nhỏ này để Chú nghe chơi. Chẳng hạn như Chú lỡ mần kế đất người bên cạnh có tật hay lấn ranh đất, mỗi năm lấn qua một chút, nhiều năm thành nhiều chút, riết rồi đất chú thành đất của người ta. Trường hợp này, Chú Sáu phải thuộc nằm lòng câu này mà nhịn nhục người ta:” Lấn ranh không sợ, chỉ sợ mua đất.”
Hoặc lúa Chú đang cần nước, chú bơm nước vô cho đầy đặn, nhưng đang đêm chú ngủ thẳng cẳng, người kế ranh Chú họ lui cui ngoài đồng và len lén móc hang cua cặp vồng ranh cho nước bên lúa của Chú chảy qua đầy bên lúa của họ, sáng ra chú đi thăm lúa, lúa của Chú khô rang. Chú có chịu nổi cảnh này không? Nếu Chú không kềm được cái giận là chuốc vạ vào mình. Thôi nhịn là thượng sách. Chú nhịn được không Chú Sáu? Còn nhiều cái kỳ lạ nữa chú Sáu à. Cái này tui nói là chuyện nó có nhưng Chú đừng nghĩ người nào cũng xấu bụng như vậy, tội nghiệp cho bà con tử tế, mà cái phần tử tế thì đông lắm Chú Sáu à.
Hoặc giả như ngược lại, lúa của chú sặc nước hổm rày, nay chú chắt nước cho vừa vặn để lúa lai tỉnh, người kế bên thấy đất Chú giựt nước, họ móc hang cua cho nước bên họ chảy qua ngập đất chú lênh láng, Chú có giận không? Không giận mới được Chú Sáu Minh à! Giận là thất bại, vì ai biết được việc gì sẽ xảy ra khi mình giận, phải hông chú? Nên tui nói mần ruộng giống như đi tu là vậy.
Nhịn được là tu được dù mình biết nhịn thì nhục, mà ông bà cũng thường khuyên nên “nhịn nhục” là yên ổn mọi bề. Thành ra, để tui dọ coi có cuộc đất nào gần đây, tui cho Chú hay sau nghen. Chú yên tâm.
Suýt chút nữa tui quên cái vụ Chú hỏi tui để thọ giáo ba cái vụ mần ruộng, Chú Sáu sắp nhỏ đừng lo. Nghề dạy nghề Chú Sáu Minh à. Không ai tài cán gì cái nghề lưu truyền này như tui có nói ở đầu thơ rồi, chỉ biết chút ít là mần tới hoài thôi!
Còn ba cái bông Ô môi, Chú cũng đừng lo. Ở đây chỉ trồng được tre gai với Ô môi, gòn và me nước thôi, nên tới mùa bông cũng nhiều mà trái cũng nhiều nữa Chú Sáu. Bông Ô môi thơm cũng khá nhưng chắc bông gáo trắng, bông gáo vàng thơm hơn, nên chừng Chú xuống đây, Chú thích thứ nào tui kiếm cho Chú thứ nấy nhe.
Thôi vòng vo mà cái thơ dài lượt bượt rồi, hẹn Chú cái thơ kỳ sau. Thăm Chú Thím và sắp nhỏ mạnh khỏe nhé. Chừng nào Chú xuống kinh xáng này Chú cho tui hay, tui ra Long Xuyên đón Chú, để Chú đi lạc lên tới Xà Tón là lạc đường đó nghe, vì đường đó là đường lên Bảy Núi huyền bí Chú à!
Cuối thơ,
Hai Trầu
Dựa lưng miếng ruộng
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 8 tây, tháng 6, năm 1999.
Thư hồi âm anh Hai Tiên,
Trời thần ơi, trưa nay trời chuyển mưa mà không mưa anh Hai à. Tui đang nằm ngoài cái võng treo tòn ten dưới bóng cây xoài xiêm kế mé mương, thì đứa cháu gái, con chị Ba Hiền, từ bên Mỹ mới dìa thăm má nó, nó men men lại đưa cho tui cái thơ tay của anh gởi. Tui mừng quá là mừng anh Hai Tiên à. Tui lật đật cảm ơn đứa cháu, rồi chưa kịp hỏi han coi nó dìa rồi chừng nào đi nữa thì nó vụt chào tui và đi thăm chòm xóm. Khi con gái chị Ba Hiền đi rồi, tui cứ dụi dụi hai con mắt hoài, không biết trời đất xui khiến thế nào mà anh còn nhớ tui và viết cho tui cái thơ dài quá là dài, tới 5 trang giấy đánh máy lận. Thiệt là cảm động, ôi thôi là cảm động dữ lắm nhe anh Hai!
(còn tiếp)







