Họ, những người tìm rong mà tôi đã gặp và trò chuyện. Những cuộc đời đây đó, nơi nào có biển là thấy họ. Món quà của biển này là nguồn mưu sinh như vô tận cho họ từ đời này sang đời khác.

Biển chiều.
Ðứng tựa vào lan can nhìn xuống thềm bê tông bên dưới chân bờ kè, tôi đoán có hơn mười gia đình. Những tấm bạt màu xanh che nửa kín, nửa hở giúp tôi hình dung được sinh hoạt hàng ngày của họ. Lúc đó khoảng 6 giờ chiều. Có vẻ như cơm nước đã xong, giờ là lúc thảnh thơi, nghỉ ngơi, chuyện trò và chờ đi… ngủ. Trên những phiến xi măng nhô cao tiếp giáp thềm bê tông bờ kè và thành dốc xuống biển có những cái xoong cùng chén bát xếp úp lại trong rổ thứ tự lớp lang. Bếp lò nguội lạnh, sạch tro, mấy cây ngô vương vãi. Kế đó, thau cho chó ăn sạch láng và những con chó vẻ no đủ đuổi nhau kêu ăng ẳng. Mấy cái nón cời úp, ngửa rải rác, kiểu như bị quăng đại ra đó sau một ngày lao động mệt mỏi. Cũng có những cái xoong được đậy điệm cẩn thận mà tôi đoán có thể thức ăn còn dư hay chừa phần cho ai đi đâu chưa về. Vài cái thuyền thúng úp lại, bên trên có miếng lưới màu xanh hay đống củi đã chẻ sẵn, dựa vào đó có mấy miếng ván, chiếc xe đạp, đồ vật lặt vặt, linh tinh…
Chỗ tôi nhìn xuống là khoảng “sân” ngoài trời dành cho sinh hoạt bếp núc, tôi thấy được bên trong lều qua khoảng trống hình tam giác. Trên một vạt (gỗ làm) giường có trải chiếc chiếu to, cái quạt nan cạnh cái mền xếp gọn. Một dải dài những tấm bạt che thành “nhà” khẳng định nếp sinh hoạt xóm làng. Tôi đi một đoạn bờ kè. Vài người đàn ông đang lụi cụi gì đó, vừa làm vừa nói chuyện với nhau, “nhà” này với “nhà” kia không có ranh giới. Những người phụ nữ ngồi trên phiến xi măng nhìn ra biển tán gẫu. Phía xa kia, nơi mép nước, một người đàn ông bế xốc đứa trẻ trần truồng, khoát nước lên mình nó rồi cả hai cười vang. Bức tranh chiều đơn sơ mà đẹp, hạnh phúc cha con.
Hết đoạn lều đến khu vực phơi rong. Ở đây, có thể thấy trên phần lề đường lát gạch con sâu, dưới thềm bê tông bờ kè, bãi đá… chỗ nào cũng có những tấm bạt trên đó là rong trải đều.
Trên đường, nhóm đàn ông nửa đứng, nửa ngồi vắt vẻo lan can chuyện trò rôm rả. Một vài người tóc đã điểm sương mặt quay ra đường hay nhìn xuống biển lặng lẽ hút thuốc. Đa phần là thanh niên, tuổi lao động, sức vóc vạn chài, vai u thịt bắp, da ngâm đen, tóc cháy hoe vì nắng gió. Gần đó một vài phụ nữ đòng đưa trên võng được mắc vào giá là những cây gỗ tròn đóng lại, chuyện vãn với nhau.
Họ làm nghề vớt rong biển, cùng một xóm ở quê vào phố biển tìm rong. Cuộc đời gắn liền với biển. Rày đây mai đó, chỗ nào có rong là họ tới.
“Năm ở nhà có 4 tháng” – một người phụ nữ nói với tôi. Gia tài của họ ở đây là cái lều, chiếc thuyền, thúng, có nhà đem theo xe máy, xe đạp, cả chó cũng theo. “Để nhà không ai cho nó ăn. Hết tháng Giêng, vợ chồng con cái, xoong nồi, chén bát, mùng mền chăn chiếu, xe đạp… chất hết lên ghe rồi rồng rắn đi tìm rong”.

Gọi là “nhà”. Bên dưới là rong phơi.
Tôi bắt chuyện và họ kể, bây giờ rảnh tay rồi, chị đến sớm hơn chẳng ai ở không. Đàn ông 6 giờ sáng lên ghe ra khơi, dò chỗ nào có rong lặn xuống vớt. Trước còn đi gần, giờ rong gần hết phải đi xa. Phụ nữ “ở nhà” cơm nước. Tầm khoảng 2, 3 giờ chiều ghe về. Phụ nữ bắt đầu việc phơi rong. Hàng ngày giũ, đảo cho khô rồi vô bao. Có bạn hàng đến thu mua cân ký. Tôi hỏi, mỗi mùa đi như vậy để dành được không, một người đàn ông có nụ cười thật tươi nói với tôi bằng giọng khá lạc quan, cũng kiếm được mấy chục (triệu). Cạnh đó, người phụ nữ dè dặt hơn, bằng kinh nghiệm của tay hòm chìa khóa: “Ăn bờ ngủ bụi khổ cực cũng chỉ đủ năm làm cho 4 tháng mưa, nghỉ ở nhà ăn không”.
Vài đứa trẻ chạy mỏi chân, trèo lên võng nằm ké với mẹ. Tôi hỏi, theo cha mẹ vầy làm sao đi học? Họ im lặng. Một cô bé từ dưới đi lên: “Mẹ ơi hết dầu gội đầu rồi, mai đi chợ nhớ mua nhen”. Ở đây, họ phải mua nước sinh hoạt theo can 20 lít, chở đến tận nơi.
Chiều đã sẫm lắm rồi, đàn muỗi quần đảo dưới chân tôi. Tôi hỏi một chị, tối ngủ có mùng chớ? Chị bảo: “Có, nhưng muỗi nhiều lắm, chưn cẳng đầy ghẻ nè. Đêm nào mưa ngồi cả đêm”.
Tôi chào họ – những “đời rong phiêu bạt” và dắt xe xuống đường. Gió thơm nồng mùi rong. Cái mùi nồng mặn khó tả và khó quên với bất kỳ ai đã từng sống ở biển. Cái mùi đã nuôi họ một năm làm 4 tháng nghỉ, đời này sang đời khác.
Trên đường tôi về, loạt ghế bố của các quán nước mía, sinh tố lác đác có khách nam nữ. Nơi đây là “thành phố tình nhân”. Hai bên đường sáng dần bởi ánh đèn điện của các nhà hàng, quán nhậu. Những chiếc xe hơi đậu hàng dài, vài thanh niên bước chồm ra đường vẫy khách. Quán nào cũng đầy người cười nói cùng với bia, rượu và hải sản.
Chẳng ai biết hay quan tâm ở bên dưới góc cua chân đèo có những kiếp rong phiêu bạt, âm thầm, lặng lẽ chờ ngày mới lên để tiếp tục ra biển tìm rong.
Bài và hình ĐTTT







