“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).
Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.
Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)
Anh cũng lấy tên báo của anh là Vui Cười trên “mạng nhện toàn cầu”. Trời đất, “mạng nhện toàn cầu” là làm sao anh Hai? Báo này có in thành tờ như tờ nhựt trình Thần Chung của anh hồi xưa không anh Hai? Em mừng anh còn minh mẫn, sáng suốt lo cho việc nhựt trình hoài để lưu lại cho con cháu nhiều đời sau có mà đọc những điều hữu ích. Em còn nhớ hồi Tía em còn sống căn dặn tụi em “Cái gì thì cũ, thì mất, chứ chữ nghĩa thời nào cũng còn xài hoài.” Vậy em cũng xin chúc mừng anh còn mê chữ nghĩa, còn vui cười, có nghĩa là anh Hai còn thuốc trường sanh, còn bổ dưỡng và còn sống hoài… Nhưng anh cũng nhờ chị Hai chăm sóc nữa mới được vậy.
Chị Hai hồi còn trẻ cũng là con nhà gia thế, giàu có nhưng rất hiền từ phúc hậu. Nhưng có lẽ, cái phúc mà anh chị Hai ngày nay có được là nhờ cái phúc của bác Ba lúc sanh tiền, nhất là bác Ba gái. Cho nên ở cửa miệng người đời thường hay nói “Phúc đức tại mẫu là lời thế gian” mà! Má em hồi còn sống thường hay kể lại, bác Ba gái hiền lắm, làm phước suốt đời. Ai nghèo bác cũng đem gạo thóc ra cho. Ai thiếu tiền thiếu bạc, chưa kịp hỏi là bác đem cho mượn lúc thắt ngặt. Đem lúa gạo ra bố thí, bố thí hoài, không lo làm giàu làm có gì mà nhà vẫn sung túc nên mới có tiền cho anh Hai lên tới Sài Gòn ăn học thành tài tới bây giờ.
Em còn nhiều điều nhớ về những kỷ niệm hồi anh Hai còn trẻ lắm, muốn viết cho anh Hai hoài, mà cái đèn dầu nó cứ ba chớp, ba sáng báo hại con mắt của em mờ mờ nên trời bên ngoài khuya lơ khuya lắc từ hồi nào… Nên chữ viết cong cong quẹo quẹo anh chị Hai đừng có cười. Em cầu Trời khẩn Phật một ngày nào anh em mình gặp lại nhau mà nghe anh chị ngồi kể những ngày lưu lạc của anh chị ở đất lạ xứ người cho nó đã đời. Nhất là anh Hai kể lại mấy chục năm làm ký giả, phóng viên ở Sàigòn hồi năm nẳm…
Còn phần em sẽ biểu mấy đứa nhỏ đi đào lươn, đuổi chuột, đuổi chim ốc cao chàng nghịch, tát đìa bắt bậy một mớ cá lóc rộng để dành đãi anh chị Hai một chuyến cho phỉ tình bà con hội ngộ. Em nghe nói ở chỗ anh ở, anh chiêu hiền đãi sĩ dữ lắm hả anh Hai! Kẻ hiền sĩ thời nào cũng quý hiếm lắm. Anh nay đã ngoài thất thập rồi, nên gần những người hiền anh lại càng vui thú tuổi già, em cũng mừng lắm.
Lá thơ viết cho anh chị vậy mà hơi dài, xin anh chị cho em ngưng bút ở đây nhe anh chị Hai! Vợ chồng em và sắp nhỏ xin kính chúc anh chị càng vui với em cháu ở bên bển và sống trường thọ để mong ngày anh em mình tái ngộ bên miếng vườn quýt thân yêu của tổ tiên mà ngồi ôn lại những thăng trầm, buồn vui cho đã thèm nghe anh chị Hai!
Cuối thơ,
Ba lần dời nhà
Hai Trầu
Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 11 năm 1999.
Kính thăm anh Tú Lé, ở Tri Tôn,
Lóng rày, thiệt tình, gia đình tui bận rộn hết sức anh Tú à. Nhà cửa của tôi xập xình quá mạng nên đành phải dời vào mùa nước mưa dầm này vì không còn cách nào chờ đợi kịp mùa khô ráo tháng Giêng được anh Tú. Vì thế, tui phải bù đầu bù cổ gần nửa tháng trời. Hết chẻ lạt đến vót rui, hết che thêm cái chuồng gà tới cất cái chuồng heo, chuồng vịt. Trăm thứ trăm lo cho dù chỉ lo chỗ ăn, chỗ ở thôi anh Tú à!
Ông bà mình có nói “ba lần dời nhà bằng một lần bị ăn trộm” mà! Nhưng cũng còn hên là, lúc trong nhà mưa gió hoài nên củi đuốc ướt mem, ba cái cây lụn vụn bị mối, mọt, bù xè ăn, không còn xài được chỗ nào cũng còn có ích cho nồi cơm, mẻ cá kho khô kho quẹt anh Tú à.
Hồi bà ngoại tui còn sống, mỗi lần từ trên Mặc Cần Dưng xuống thăm anh em tụi tui, ngoại cứ nhắc đi nhắc lại hoài câu này: “ăn nhiều chứ ở có bao nhiêu” khi thấy nhà của tía má tui chật chội quá mạng vì nhà nghèo. Nhưng mãi tới bây giờ khi tuổi trên đầu hơi nặng nặng rồi, tui mới thấy cái cảnh con cháu rần rần rồ rộ mỗi lần sắp nhỏ ở xa dìa thăm, không có giường chõng cho con cháu ngủ, mới vỡ lẽ ra rằng ở cũng nhiều như ăn vậy anh Tú!
Cái nào cũng phải lo vắt giò lên cần cổ chứ không phải giỡn chơi được, dù lo chỗ ngủ, lo miếng cá, miếng cơm. Con người ta mà, chết thì thôi, chứ còn sống là còn lo. Lo cho mình, lo cho con cho cháu, lo cho anh cho em, lo bao đồng cho thiên hạ, chòm xóm láng giềng nữa tới mãn đời… Ông bà mình lo cho cha mẹ. Cha mẹ mình lo cho mình. Tới phiên mình lại lo cho con cháu mình. Nước mưa trên mái nhà mưa xuống mà, cũng như nước mắt chảy xuôi vậy anh Tú.
Bởi vậy, tui thấy cha mẹ già thường ngồi một mình mà than thân già rồi buồn một mình mà nhiều lúc con cháu cứ mải lo cho nó rồi đâu có thấy cha mẹ ngồi buồn bã len lén chùi mấy giọt nước mắt cứ chảy xuôi…
Cái thơ anh viết quá chan chứa tình anh em dù anh có gạnh thêm ở dưới cái thơ rằng giữa anh và tui là chỗ bà con xa. Tui nghĩ như vầy nhe anh Tú, mình xa là xa chỗ ăn chỗ ở nhưng vẫn còn tình cốt nhục họ hàng mà! Cho dù anh ở trên Tri Tôn (Xà Tón) hay biệt mù trên núi Ông Cấm, núi Tượng, núi Bà Đội Om đi nữa, miễn mình biết bà con là nó cũng gần xịt hà! Đâu có xa lơ xa lắc gì.
Lâu quá rồi, có khi nào anh đi xuống Long Xuyên bằng đò không. Vì anh đi con đường sông từ Tri Tôn xuống dưới đó, thế nào anh cũng phải đi ngang qua cầu Nhà Lầu của ông Chệt Được, một chủ điền lớn lắm hồi xửa hồi đời xưa, thuộc Mặc Cần Dưng, làng Bình Hòa. Ở đó là quê ngoại của tui đó anh Tú à! Bây giờ cái nhà lầu lớn tổ bà dềnh này chỉ còn một cái mặt gió đội nắng dầm mưa thôi hà! Quang cảnh tiêu điều, vắng vẻ lắm, không như hồi tụi tui còn nhỏ. Ngày xưa, xưa lắm, thỉnh thoảng, cái sân rộng phình phía trước nhà lầu, chiều chiều có gánh hát sơn đông mãi võ bán thuốc cao đơn huờn tán mượn chỗ để diễn trò ảo thuật bán thuốc kiếm cơm.
Trời thần ơi, nhớ hồi đó, chiều nào nghe tiếng trống lung tung, lung tung là tui ăn cơm đâu có no. Cứ nuốt bậy ba hột là cắm đầu cắm cổ chạy lên nhà lầu cho lẹ để xem sơn đông nó hát. Tụi tui ở dưới quê lúc đó nghe người lớn gọi là “hát sơn đông”. Nhưng sau này khi mình lớn lên rồi, sực nhớ lại thì sơn đông đâu có hát xướng gì đâu anh Tú. Chỉ có la và hét cho lớn có đệm mấy tiếng trống lung tung, lung tung để quảng cáo thuốc tiêu, thuốc tán, thuốc dán, thuốc rượu không hà. Nhưng mình phải công nhận mấy người bán thuốc sơn đông cũng có tài ăn nói lắm nghe anh. Thiệt thà, chậm lụt như tui với anh chỉ có nước la bể cái cổ họng cũng không có con ma nào giơ tay “cho tui mua một gói thuốc xổ lãi hiệu con bướm vàng” chứ đừng nói gì tới mua thuốc cao hổ cốt…
Rồi từ nhà lầu này, anh đi dài ra chợ Mặc Cần Dưng sẽ gặp chùa An Hòa bên kia bờ sông, đến thánh thất Cao Đài có đền thờ Phật Mẫu với cái trường học mà hồi nhỏ tui học gọi là Đạo Đức Học Đường.
Anh đi một đỗi nữa, anh sẽ gặp cái phủ thờ thuộc gia tộc ông Nguyễn Tấn Đời, rồi tới Đình Thần làng Bình Hòa. Cái đình này có Ông Thần linh lắm nghe anh Tú. Hồi nhỏ tui chun xuống đít bàn thờ ông Thần hoài hà vì tui học ba cái chữ quốc ngữ trong cái đình này vào lúc bãi trường. Lúc đó tụi tui chơi giỡn vui lắm chứ có đâu như bây giờ già lụm cụm quá mạng anh Tú à!
Đó đó, đại ý là tui muốn dẫn anh đi ngang qua thăm bên ngoại tui cho biết bà con gốc gác, để hông thôi bà con mà không tới lui, càng ngày càng xa lơ xa lắc ráo trọi. Ông bà xưa của mình ưa nói “bà con ngày một xa, sui gia ngày một gần” là chí lý lắm phải hông anh Tú?

Huyện Hương Thủy, tây nam Huế trong cơn lụt năm 1999 – nguồn dantri.com
Anh Tú Lé ở Tri Tôn,
Thiệt tình, tui đâu dám kêu cái tên của anh ra vì sợ con cháu nó lờn mặt vì tên tuổi người lớn mà không cữ kiêng còn hài danh hài tánh là không phải lẽ anh em thượng hạ. Nhưng thấy anh có gạch thêm cái tên ở dưới, nên tui mới dám bắt chước làm theo, có gì anh bỏ qua cho em út nhe anh Tú.
Số là trong lá thơ anh gởi, anh có nhắc Bà Nội anh hay xài hai chữ “bát ngát” như ám chỉ cái nỗi buồn thương man mác. Rồi anh gạnh thêm hồi anh còn đi học, anh thuộc lòng câu Kiều có chữ “bát ngát” nữa: “Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia ” Anh mới sực nhớ ông Xuân Diệu giải nghĩa “bát ngát” là chỉ cái cảnh “sóng nước mênh mông”, rồi anh đâm ra nghi nghi ngờ ngờ không biết Bà Nội anh đúng hay ông Xuân Diệu đúng, hoặc Bà nội anh sai và ông Xuân Diệu cũng sai hoặc cả hai đều đúng ráo trọi.
Trời thần ơi, tự dưng anh làm tui cũng bủn rủn tay chân bật ngửa bởi ba cái chữ nghĩa sao mà rắc rối hết biết. Chứ còn ở dưới miệt kinh, miệt vườn của mình, ngày nào tui cũng nghe hoài mấy chữ bát ngát này, ở nhà quê rồi riết đâm ra quen tai.
Tui ghi ra đây để anh coi nhe. Xoài chín cây thơm “bát ngát”. Bông bưởi, bông cau thơm “bát ngát”. Úi cha! Đứa nào kho nồi mắm thơm “bát ngát” vậy bây? Cây bông sứ của ông Cả trổ bông thơm “bát ngát”. Cha chả! Bữa nay con nhỏ này xức dầu dừa thơm bát ngát. Thằng Tám, mầy xức dầu bờ- ri- dăng- tin ba số năm thơm “bát ngát”, chắc thằng này có mèo rồi. Đứa nào mới rang bắp thơm “bát ngát” vậy bây?
Sơ sơ vậy đó anh Tú, còn nhiều lắm. Nhà quê xài hai chữ này như quen lắm anh Tú à. Còn tui kể là kể vậy, chứ nào có dám múa rìu qua mắt thợ mộc được. Phải vậy hông anh Tú?
Anh Tú Lé ơi,
Ở kinh xáng này nước vừa mới giựt mấy bữa rày. Chắc tui cũng sắp sửa dọn đất để sạ lúa ăn Tết. Rầu nạn nhà cửa chưa xong thì lại nghe đâu Miền Trung bão lụt nữa. Nhựt trình, ra dô trong xóm tui bà con nghe rần rần. Màn trời chiếu đất nghe đâu nặng nhất là Huế anh Tú à! Bà con ngoài đó chết chìm chết nổi dữ lắm. Nhớ hồi xưa ông nội tui ra Huế dự kỳ thi Hương phải mất cả tháng trời mới tới nơi mà kỳ đó ông tui rớt tuốt. Sau này tui có “ông nội nuôi” cũng ngoài Huế vô trong này bán thuốc cao hổ cốt, ổng cũng đi cả tháng trời mới tới kinh xáng Bốn Tổng này.
Thành ra, dù xa xôi diệu vợi, nhưng nghe bà con bị nạn trời, mình cầm lòng không đậu anh Tú à! Miếng khi đói bằng một gói khi no mà. Tui dặn sắp nhỏ mau mau có đồng nào gửi cho đồng nấy lúc người ta hoạn nạn không cửa không nhà, chứ đừng chần chờ đợi khá giả mới gởi cho. Nóng lòng thì căn dặn vậy, chứ không biết gởi bằng cách nào cho tới nơi, tới chốn anh Tú à!
Chỉ có vậy mà tui đây thụt con mắt mấy bữa rày. Rầu quá là rầu! Mình đã khổ, còn có biết bao sinh linh trong cảnh không cơm cháo, không áo quần, không nhà cửa, không mùng chiếu còn khổ hơn mình nữa đây?!? Vậy anh có hay tin này, ở Tri Tôn, anh coi có khá không mà lo tiếp cứu bà con được đồng nào hay đồng nấy, chứ biết kêu trời trách đất gì bây giờ.
Gần năm 2000 rồi mà! Thiên tai biết đâu mà liệu lượng cho nổi!!! Cái thơ thăm anh vậy mà dài thườn thượt rồi, anh cho tui ngừng ở đây. Tui thăm anh cùng chị Tú và sắp nhỏ. Để chừng nào trên Xà Tón có đua bò, tui lội ngược lên đó một bận và sẽ ghé thăm anh cho biết bà con, chứ không thôi bà con xa hoài là xa tuốt luốt đó nghe anh!
Cuối thơ,
Hai Trầu
(còn tiếp)








