“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên” là câu nói nổi tiếng của Archimedes (287-212 trước Công Nguyên). Ổng là một nhà toán học, nhà vật lý, nhà phát minh huyền thoại người Hy Lạp. Hình của Archimedes được in ở mặt trước của Huy chương Fields, giải thưởng danh giá được coi là “Nobel Toán học (vì giải Nobel không bao gồm lĩnh vực toán học), được Hiệp hội Toán học quốc tế (IMU: International Mathematical Union) trao 4 năm một lần cho những nhà nghiên cứu nổi bật.

Ơ-rê-ca (Eureka, nghĩa tiếng Việt là “tìm ra rồi”) là một giai thoại nổi tiếng về cách ra đời của “lực đẩy Archimedes” và của mục.. này.

Bản thân từ “perfume” (dầu thơm) bắt nguồn bởi tiếng Latinh “per fumum”, nghĩa là “xuyên qua làn khói”.

Thuở sơ khai ở Lưỡng Hà, người chế tạo dầu thơm đầu tiên được ghi nhận là Tapputi, bà chưng cất hoa cỏ để tạo khói thơm dâng lên thần thánh. Giới quý tộc và thầy tế Ai Cập cổ đại tin hương thơm là “mồ hôi của thần”, nên dùng nó để ướp xác người chết, thể hiện quyền lực cho người sống.

Người Hy Lạp và La Mã tiếp nối di sản này nhưng đưa dầu thơm vào sinh hoạt thường nhật. Họ tắm trong dầu thơm, ướp hương cho quần áo, thậm chí thả chim thơm trong các buổi tiệc xa hoa. Tuy nhiên, tất cả chỉ dừng lại ở dạng dầu và sáp.

Xem thêm:   Món mắm miền Nam

Khi Đế quốc La Mã sụp đổ, nghệ thuật hương thơm tại châu Âu tạm lụi tàn, nhường không gian sáng tạo cho Phương Đông, Ba Tư, thế giới Ả Rập… Triết gia và thầy thuốc Ba Tư Avicenna (Ibn Sina) đã hoàn chỉnh kỹ thuật chưng cất hơi nước (có trước đó). Thành công chiết xuất “linh hồn” của bông hoa (tinh dầu) – tạo ra thứ nước hoa hồng tinh khiết mà không bị lẫn với dầu béo.

Dầu thơm trở lại châu Âu qua các hiệp sĩ Thập tự chinh, từ… sợ hãi. Giữa thế kỷ 14, Dịch hạch đen, đỉnh điểm 1347-1351 – tàn sát lục địa. Y học thời Trung cổ tin theo “Thuyết Chướng khí” rằng bệnh tật lan truyền qua mùi hôi, người ta phải dùng “mùi thơm” để bảo vệ cơ thể. Dầu thơm trở thành vật dụng y tế. Trong bối cảnh đó, “Dầu thơm Hungary” (khoảng 1370) ra đời, đánh dấu lần đầu tiên cồn được dùng làm dung môi, vừa là mỹ phẩm vừa là thuốc sát trùng. Nghịch lý thay, người ta vừa sợ “chướng khí” nhưng cũng sợ… tắm – vì tin nước nóng mở lỗ chân lông cho khí độc. Dầu thơm càng bán đắt hơn tôm tươi…
Đến thời Phục hưng, Ý là trung tâm sản xuất hương liệu. Nhưng khi Catherine de’ Medici kết hôn với vua Pháp Henry II vào thế kỷ 16, bà đem theo nhà chế tạo dầu thơm riêng. Từ đó, nước Pháp dần thống trị thế giới hương thơm. Grasse, một thị trấn miền Nam vốn hôi hám vì nghề thuộc da, bắt đầu ướp hương hoa cho găng tay da theo mốt của quý tộc. Khí hậu lý tưởng đã biến Grasse từ nơi thuộc da thành kinh đô dầu thơm thế giới. Nghề trồng hoa đã thay thế hoàn toàn nghề thuộc da.

Xem thêm:   Chuyện tình dễ thương

Sau hàng ngàn năm cố mô phỏng thiên nhiên, nhân loài tìm cách tạo ra phân tử hương tổng hợp. Năm 1882, “Fougère Royale” ra đời với mùi Coumarin tổng hợp, tạo nên nhóm hương Dương xỉ chưa từng có trong tự nhiên. Năm 1889, “Jicky” của Guerlain “chơi lớn” kết hợp oải hương tự nhiên với vanillin tổng hợp.

Năm 1921, Coco Chanel là người đầu tiên muốn loại dầu “có mùi của phụ nữ, chứ không phải của một bông hoa”. Chanel No. 5 – với liều lượng lớn aldehyde (hương tổng hợp) – đã trở thành chai nước hoa “nhập môn” của dân chơi nước hoa điệu nghệ tới nay.

Qua tầng tầng lớp lớp sáng tạo, nhiều loại dầu thơm đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh được giới mộ điệu trân quý, nhiều loại thì… không.