“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).
Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.
Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)
Ở miệt vườn cây trái bốn mùa hay thuộc vùng kinh rạch hai bên bờ rợp bóng dừa nước, ô rô, cây bần, cây cà na, cây gáo? Rồi còn gốc gác bên nội ở Bình Dương mà nằm về hướng nào? Cát Lái hay Lái Thiêu?
Hồi nhỏ tui nghe Tía tui nói lại, người ta gọi cái tỉnh của chú là Thủ Dầu Một vì nơi đó có một cây dầu lớn lắm, bốn năm người ôm không giáp, đứng một mình ở đầu tỉnh. Người ta kêu riết rồi thành danh “Thủ Dầu Một” cho tới bây giờ, cho dù sau này mấy ông lớn cứ sửa đổi hết Bình Dương rồi tới Sông Bé, Phú Cường nhưng Thủ Dầu Một vẫn một mực Thủ Dầu Một hoài hà chú Sáu à! Bởi vậy, cái chuyện nhỏ này cho mình thấy cái gì mà nó đã đi vào lòng dân quê rồi là khó mà sơn phết, thay đổi cái tên, cái chỗ cho lạ được.
Người nhà quê dù quê mùa nhưng có cái bền bỉ keo sơn, thủy chung như nhứt suốt đời; không ai dễ nói đen thành trắng, nói quạ thành diều, nói mèo thành chuột, nói lươn thành chồn mà họ nhắm mắt nhắm mũi nghe theo mù quáng bất kể chết!
Trời thần ơi, ở chỗ chú tới mùa mưa, măng cụt vỏ đen ruột trắng dày cơm ngọt gì mà ngọt líu lưỡi chứ chẳng chơi. Còn bòn bon, dâu xanh, mận hồng đào, mận trắng nữa, biết bao nhiêu là cây trái! Hồi nhỏ tui có theo Tía tui ra ngoài đó thăm ông anh tui đi lính công binh, rồi ở lại chơi mấy ngày. Nên Tía tui có tạt xuống miệt Lái Thiêu coi cách trồng cây lập vườn ở miệt này để mà học hỏi thêm đặng tu bổ cho vườn cam quýt dưới nhà vườn của Tía tui. Tui còn nhớ, đi tới đâu Tía tui chăm chú hỏi cách thức trồng cây bằng hột hay chiết nhánh chiết cành gầy giống.
Ở vùng này, mỗi bờ vườn bề ngang khoảng năm ba thước mà hai bên là những con mương đầy nước lé đé mát rượi. Lập vườn ở đâu cũng phải khai mương mà! Vì vậy mới có câu ca dao: “Lập vườn thì phải khai mương. Làm trai hai vợ phải thương cho đồng” cũng thâm thúy lắm! Nhưng ở quê của chú mương nước sát bên gốc cây nên cây trái xanh um quanh năm là phải!
Cũng giống như miệt vườn dưới Phong Điền, Cầu Nhiếm, Ba Xe, Ô Môn, Bình Thủy, Nha Mân, Cái Tàu, Sa Đéc, Vĩnh Long, Cái Bè, Long Định, Cái Mơn, Bến Tre, Vĩnh Châu, Bạc Liêu, Mỹ Hoà Hưng, Chợ Mới, Tân Châu, Long Xuyên và nhiều chỗ khác ở dưới này, đâu đâu cũng có mương có rạch bao bọc cho cây cối xanh um.
Nhưng có khác một điều là vùng đất dưới này thấp, nước mỗi năm mỗi lụt nên nền vườn phải bồi đắp cho cao để nước khỏi ngập, nên mùa nắng mương nước giựt bờ khá xa, không lé đé bốn mùa như chỗ quê nội của chú. Do đó, mới có câu tục ngữ trong việc ruộng nương, vườn tược ở chỗ tui thành quen thuộc là “nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” là có lý lắm chú Sáu! Coi vậy mà nước là nhứt dù nước lạnh thôi phải hông chú Sáu?

Đào mương trồng khóm tại Mỹ Tho – nguồn báo Lao động
Nhắc vụ này, tui nhớ hồi còn nhỏ có dịp ra Long Xuyên coi chiếu bóng ở rạp Tây Đô. Cái tựa phim là gì tui quên tuốt luốt nhưng đại khái là cảnh chiến tranh thế giới lần thứ hai giữa các nước đồng minh và phe trục phát xít. Chiến tranh ròng rã kéo dài, một bên cứ chạy, bên kia cứ rượt đuổi theo dính đuôi hoài. Hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, hết chiến lợi phẩm này đến chiến lợi phẩm khác tịch thu, không biết giết được bao nhiêu kẻ địch mà kể cho xiết… Càng hăng máu chiến thắng càng tiến công dữ dội, mà bước viễn chinh sa vào giữa sa mạc vùng Trung Á lúc nào không hay, không biết. Nên binh lính bên thắng cũng như bên bị rượt cuối cùng hết muốn giành đất giành đai, hết muốn tranh thắng tranh thua và cuối cùng xe tăng, súng đạn quăng bỏ hết, chỉ còn biết giành giựt nhau mấy bi-đông nước lạnh như mục đích cuối cùng của cuộc chiến tranh giết chết biết bao sinh linh tính mạng con người! Mặc dù đó là chuyện chiếu bóng, nhưng thật là một bài học về nước lạnh để đời cho mọi người! Có khát nước mới thấy cuống họng mình bị khô, cổ đắng nghét đắng chằng! Có lập vườn, làm ruộng mới thấy trời mưa, nước lạnh là cần! Bởi vậy mà ai ai ở dưới ruộng cũng “lạy trời mưa xuống, lấy nước tui uống, lấy ruộng tui cày, lấy đầy chén cơm, lấy rơm đun bếp” mà!
Còn nhiều lắm chú Sáu à! Như trong thơ, chú có kể chú phải đi “biệt mù san dã” qua biết mấy cái biển khơi nước mặn, chắc chú đã hiểu hơn ai hết mấy giọt nước lạnh trong cái can nhựa về những ngày ghe cui của chú lênh đênh trên biển mịt mùng giữa cơn giông tố bão bùng !!! Thành ra, chú nói chú nằm chiêm bao nhớ nhà quê hoài là vì cái nhà quê ở bên ngoại của chú dưới miệt vườn của tui hay cái nhà quê bên nội của chú ở trên Thủ Dầu Một nó nước mát bốn mùa. Nước mát như máu chảy luồn trong đất nuôi rễ, nuôi cây để trổ ra bông, ra trái và nó cũng chảy trong da thịt mình làm máu nuôi cơ thể nữa chú Sáu à!
Chú Sáu,
Để kết thúc cái thơ, chú còn viết “bởi vậy chuyện sức khỏe của anh bây giờ không phải là của riêng anh nữa đâu nghen, anh có quở thì tui đành chịu, tui phải nhắc nhở anh hoài hoài không thôi bữa nào anh lại để cho nắng mưa nó quật anh nữa thì tụi tui đây buồn biết chừng nào!” Thiệt tình tui cảm ơn chú Sáu không hết, chứ đâu có dám quở trách gì! Cái lòng của anh em, chòm xóm láng giềng lo cho mình như vậy nó quý vô cùng, còn trách cứ cái nỗi gì nữa! Và chú Sáu làm tui nhớ câu tục ngữ “bà con xa không bằng láng giềng gần” nó vô cùng ý nghĩa!
À này, còn phần chú Sáu thì sao? Đời sống có đỡ đỡ hông? Sắp nhỏ học hành giỏi giang hông? Nghe nói bên Mỹ ngày nào cũng phải đi cày? Có đúng vậy hông chú Sáu? Chú lần sau có viết thơ cho tui chú nhớ kể sơ sơ cho tui nghe chơi nghen, để tui còn nói lại cho bà con ở kinh xáng Bốn Tổng này nghe nữa. Chứ chuyện gì không biết, rồi nghe đồn, mà nói đi nói lại là tam sao thất bổn ráo trọi.
Ngoài ra, còn một điều này nữa, tui nhắc chú viết thơ như vậy là để bà con ở đây có anh em ở bên Tây, bên Nhật, bên Mỹ, bên Úc biết cái cực nhọc của em cháu mình mà thương em út thêm! Có hiểu em cháu phải chạy theo cái đồng hồ mới kiếm ra tiền, rồi từ đó mà xài phí tiền bạc cho vừa vừa phải phải, đúng nơi, đúng chỗ. Chứ hông thôi, tưởng ở bển giàu có, ra đường là lượm vàng, đâm ra ỷ lại rồi xài phí như nước, có nước bà con em út ở bên bển bành thân mẹo dậu chứ chẳng chơi! Cuộc đời tui đã qua nhiều phen bành thân mẹo dậu rồi nên tui biết giá trị của mồ hôi mặn, nước mắt cay dữ lắm chú Sáu à!
Chú cho tui gửi lời thăm thím Sáu và sắp nhỏ mạnh giỏi, học hành cho đàng hoàng, thành người với người ta cho rạng rỡ tông đường nghen chú! Tui cảm ơn chú nhiều lắm!
Nay thơ,
Hai Trầu
Già trẻ hòa đồng
Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 10 năm 1999.
Kính gởi anh chị Hai Văn,
Anh chị Hai ơi, trước hết em có lời xin lỗi anh chị Hai vì đã lâu quá là lâu rồi em không thơ từ liên lạc thăm nom anh chị, làm anh chị chắc cũng trách thằng em bất nghĩa này dữ lắm. Em cũng biết vậy anh chị Hai à. Nhưng nhiều lúc ruộng lúa, rẫy bái, rồi công chuyện nhà mấy sắp nhỏ lu bu quá mà em đành lỗi đạo đệ huynh với anh chị. Cái lỗi này, anh chị có thương tình em út mà bỏ qua cho, là vợ chồng em mừng lắm nhe anh chị Hai.
Hôm trước, thằng con ông Ba Chẵn, nó có gặp lại anh chị đi dự một đám cưới, nó viết thơ về bên này kể lại là anh chị bây giờ còn mạnh khoẻ lắm. Em rất mừng. Anh chị đã ngoài bảy mươi rồi còn gì. Em nhớ dường như anh sanh năm 1929, rồi mười năm sau là thế giới chiến tranh lần thứ hai, từ năm 1939 cho tới năm 1945 đó, với cái kết cuộc là hai trái bom nguyên tử của phe đồng minh rớt xuống hai thành phố có tên gì “ma, ma” bên nước Nhựt vô cùng khốc liệt.
Theo tuổi tây, anh nay là bảy mươi chẵn rồi, nhưng tính theo tuổi ta của mình, anh được bảy mươi mốt là vậy! Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, trên đời này, đâu phải ai cũng muốn sống dai trường thọ đến cái tuổi bằng anh chị là được liền đâu anh Hai. Thành ra, vợ chồng em mừng là vậy anh chị Hai à!

Tờ nhựt trình Thần Chung xưa
Nhớ hồi anh còn trai trẻ, lúc em theo tía em đi Sài Gòn bán tôm rang muối, là lúc anh được bác Ba cho ăn học gần thành tài. Anh bông bắn, mau lẹ lắm khi gặp bà con dưới nhà quê lên thăm. Cái tình của anh đối với họ hàng, chòm xóm nó thắm thiết lắm. Nhất là lúc anh làm ký giả hay phóng viên, phóng viếc gì đó cho tờ nhựt trình Thần Chung ở Sài Gòn, Tía má em nhắc hoài, “khi nào mấy đứa bây lên Sài Gòn học nhớ tìm cho gặp anh Hai bây, nó làm ký giả ở trển mà thăm nó, nó thương em út lắm chớ không phải như người ta.” Bây giờ, Tiá má em đã mất lâu rồi anh chị Hai à, có tới hơn hai chục năm, mà em còn nhớ lời căn dặn ấy hoài của cha mẹ mình. Người già mà, nhìn người tốt, người xấu là nhìn từ trong ruột trong gan mà biết chớ không phải nhìn mặt, nhìn mày mà đoán mò. Phải vậy hông anh chị.
Tờ báo Thần Chung mà anh chạy tin hồi năm nẳm, em nhớ hồi em còn nhỏ lúc hiệp định “Giơ Neo Vờ” ký kết chia đôi đất nước hồi năm 1954, cả cái xóm mình xúm nhau ngồi chung quanh bộ ngựa gõ mốc thít vì hồi tản cư Tía em giấu dưới hầm cá vồ, để nghe anh năm Tờn đọc báo. Lúc đó, ai ai cũng trầm trồ những tấm hình ảnh chụp đăng trên báo cảnh bà con xôn xao khi nghe tin đình chiến với vẻ mặt vui buồn lẫn lộn cùng binh lính Pháp tàu bè rút tuốt về Tây. Bà con xóm mình nói hình của anh Hai tụi bây chụp đó.
Hồi đó, bác Ba, ba của anh, cũng hài lòng đứa con trai cưng của mình lắm. Em thấy bác Ba uống trà với Tía em mà cặp mắt sáng rực với những tấm hình thời sự khi đất nước qua phân.
Anh chị Hai ơi, Bây giờ em thì bịnh hoạn hoài anh chị à, dù chưa già lắm, mới có ngoài sáu chục chút đỉnh vậy mà cứ rề rề. Chắc tại mình ăn ba cái gạo xịt thuốc sâu ấp lẫm bốn mùa nên gây ra bịnh tật. Rồi còn thêm cái nạn lo rầu nợ nần vay mượn theo từng mùa, từng vụ mà tâm sầu bạch phát hồi nào em cũng không hay biết. Cái già xồng xộc trên mặt, trên tóc, trên da những nốt đồi mồi chi chít. Chứ hồi xửa, hồi xưa lúc làm lúa mùa, gạo lứt nàng tây, gạo đuôi trâu ăn ngọt lịm mà người già càng sống dai, càng mạnh khỏe chứ có đâu như bây giờ, ở kinh xáng này, trai tráng đều già háp ráo trọi. Mới ngoài bốn chục, năm chục là mặt mày hốc hác, râu tóc muối tiêu quá mạng vì cơ cực, nhọc nhằn lam lũ suốt ngày.
Em cũng nghe thằng con ông Ba Chẵn nói anh chị Hai mạnh khoẻ là nhờ làm chuyện phước đức nhiều, lúc nào cũng “vui cười”, hoà đồng với sắp nhỏ, em cháu nên quên cái tuổi thiên mệnh chất chồng. Nhớ hồi xưa, anh hai khoái cười lắm, ít khi buồn phiền. Khi gặp tụi em dưới quê lên Sài Gòn chơi là anh dạy câu châm ngôn “vui cười là liều thuốc trường sanh “.
Mà thiệt vậy anh Hai, em thấy ai cứ rầu rầu hoài đều già ráo trọi anh Hai à! À, mà nghe nói anh bây giờ có làm báo nữa phải hông?
(còn tiếp)








