“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Miếng khi đói

Ý mèn ơi, bắt qua vụ trồng khóm này, hồi xuống U Minh tui có trồng rồi anh Hai à. Thông thường từ ngày đặt con khóm xuống mặt đất tới ngày khóm có bông là đúng 18 tháng theo trời đất mưa thuận nắng hòa. Nhưng tình cờ có thằng bắt nhái bằng đèn khí đá té nhào vô đám khóm, đèn đuốc văng tứ tung, cứt khí đá văng đầy lên bụi khóm còn non rồi tình cờ người ta thấy sao chòm khóm trổ bông sớm hơn mấy bụi khóm khác cùng trồng một lượt. Thành ra, sau này căn cứ vào cái vụ thằng bắt nhái bắt cóc, người ta bắt chước tưới khí đá lên ngọn khóm để cho khóm trổ bông sớm.

Khóm trồng được cỡ 10 tháng là bắt đầu lấy khí đá pha trong nước, rồi lấy keo chao múc nước khí đá đổ tưới rượi lên ngọn khóm là vài bữa sau khóm trổ bông ráo trọi. Mỗi keo chao như vậy mình tưới được 4 cây khóm nghe anh Hai. Nếu anh có trồng vài bụi khóm chơi, anh tưới thử là sẽ thấy linh ứng liền hà! Khóm muôn, khóm ngàn mẫu, mình phải chia ra từng lô rồi tưới khí đá. Nay tưới mẫu này, mai tưới mẫu kia, chứ anh hai mà tưới một lượt cả ngàn công khóm, tới chừng có trái chỉ còn có nước kêu thằng em lên xắn khóm đem dìa ăn chứ bán buôn gì kịp, vì khóm sẽ trổ bông một lượt, khóm già một lượt, khóm chín một lượt, quân ngũ nào mà ăn cho hết. Phải vậy hông anh Hai?

Còn hỏi anh vụ này nữa, hai cây cầu treo ở Thủ Thừa, anh Hai có nghe ông bà xưa kể lại là Tây nó bắc hồi năm nào không anh? Hồi tui chở gạo lên Sài Gòn qua ngã này chun lòn dưới mấy cây cầu này ghê quá anh Hai. Sao tui thấy nó đung đưa như răng bà già tám mươi tư tuổi. Sông sâu nước chảy, cầu treo, ghe tàu chạy rầm rập nên sông nước vùng của anh cũng khá rộn ràng nhộn nhịp, nhưng lạ nước lạ cái sao tui thấy đời mình trôi nổi cũng buồn buồn, không vui nổi…

Cái thơ nói lòng vòng định ngưng hồi nãy mà sao nó kéo ra thêm nên dài quá. Mấy lời thăm anh Hai, chị Hai cùng sắp nhỏ mạnh giỏi, ấm cúng ba ngày lễ mừng Đức Chúa ra đời. Sẵn đây, năm 1999 cũng sắp hết, năm 2000 gần tới rồi, vợ chồng tui chúc mừng anh chị cùng sắp nhỏ năm mới 2000 làm ăn phát đạt, khóm mía trúng mùa, rồi có dịp ghé xuống kinh xáng Bốn Tổng nhậu chim ốc cao rô ti, gà nước xào mướp hương, chuột cơm nướng tươi chấm nước mắm bằm xoài đặng nghe tui hát bội tuồng Nhạc Hoa Linh của thầy Nguyễn Văn Sâm phiên âm ra quốc ngữ cho đỡ buồn. Chắc anh chị sẽ cười bể cái bụng!

Xem thêm:   Khi Shein bước vào BHV Paris

 

Cuối thơ,

Hai Trầu

Ba điều bốn chuyện

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng Giêng, năm 2000

 

Gởi lời thăm Cô Út,

Lâu quá là lâu, anh Hai của cô mới rảnh viết cho cô cái thơ này thăm vợ chồng cô cùng hai đứa nhỏ mạnh giỏi. Hôm trước ở bên nhà nhận được lá thơ cô gởi dìa thăm, trong thơ có nhắc thằng con trai lớn của cô, bây giờ nó lớn quá rồi, mỗi lần gặp bạn là nó mừng rỡ rồi bi bô vui đùa với bạn, quên luôn cả mẹ làm cô ép tim mà nghĩ lại hồi nhỏ mình cũng ham vui và ít để ý thấy mẹ mình buồn.

Ông bà xưa có nói rồi cô Út à: “Có nuôi con mới biết công lao của cha mẹ” mà! Cô làm tui nhớ câu thơ con cóc hồi đó tui làm lúc cô còn nhỏ xíu nhỏ xiu:

“Lúc còn bú con không rời vú mẹ,

Nuôi con thơ mẹ quen nhịn cơm chiều.

Khi khôn lớn, mỗi lần con xa mẹ,

Để chiều về, tựa cửa mẹ trông theo…”

Độ này bên này thời tiết ngược đời quá cô Út. Tháng này là tháng Mười Một âm lịch rồi. Đâu còn bao lăm ngày nữa đâu là lại Tết Nguyên Đán. Vậy mà trời cứ mưa ầm ầm hoài giống tháng Bảy, tháng Tám mưa dầm rước nước. Hồi xưa ông bà có truyền miệng với nhau “năm Thìn trời bão thình lình”, mà Tết năm này lại là năm Canh Thìn, nên tui lo quá cô Út. Mới hôm trước đây bão tố tơi bời ngoài miền ngoài, bây giờ trời lại mưa, lại lạnh thấu xương thấu cốt nên không biết lúa thóc có bị hư hại gì không đây!

Hôm đầu năm 2000, chỗ cô ở nghe nói tên gọi gì gì mà lạ hoắc “Y2K”, tui nghe mà muốn điếc cái lỗ tai, không hiểu gì ráo trọi. Vậy là sao hở cô Út? Rồi vợ chồng cô và sắp nhỏ có bị trầy trật gì hông?

Khúc Ca Ngày Mùa – nhạc sĩ Lam Phương 

Ở đây tui thấy lối xóm cũng lo gánh nước chứa đầy lu; xay gạo đựng đầy mái vú ba giạ; nước mắm chứa đầy chai đầy tĩn; muối cục Bạc Liêu cũng đầy hũ; mắm lóc, mắm cá linh cũng đầy khạp để phòng hờ…; rồi trong nhà tui sắp nhỏ cũng cụ bị đủ thứ thực vật, nếu mưa hoài không đi đâu được chắc ở không ăn cũng được cả tháng chứ chẳng phải chơi.

Mèn ơi, nghe nói ở chỗ cô ở người ta đốt pháo bông ăn mừng năm 2000 lớn lắm mà. Nghĩ chuyện đời cũng lạ. Lo sợ trời sập thì cứ lo sợ trời sập, mà ăn mừng vẫn cứ ăn mừng! Ở nhà quê miệt kinh rạch này cũng lo y như vậy nhưng đâu có pháo bông pháo biếc gì để mà đốt mừng năm mới năm mủn. Nghèo gần chết chứ có sướng ích gì mà vui với vẻ cô Út ơi! Thấy rầu quá nên tui mới rủ anh Sáu, anh Tư Phan uống rượu quên sầu. Rượu thì rượu nếp, rượu gạo; mồi thì mùa này cá rô cá sặt cặp gắp nước tươi chấm nước mắm me với mớ rau má, rau dừa, cải trời lai rai cho đỡ khổ.

Xem thêm:   Khi phái đẹp... nhậu!

Vậy mà anh Sáu quắc cần câu nghe cô, còn tui với anh Tư Phan tửu nhập bộn bộn là bắt đầu hợp ca, hợp xướng. Trời thần ơi, hai đứa tui hát ba trật ba vuột mấy bài Trăng Rụng Xuống Cầu, Gạo Trắng Trăng Thanh, Khúc Ca Ngày Mùa, Tiếng Hò Miền Nam nghe mà cười bể cái bụng. Anh Sáu quắc cần câu vậy chớ cười gần đứt ruột chứ chẳng chơi. Ảnh còn ngâm bài thơ con sáo con nhòng hoài nữa đó!

Cha, nhắc tới bản nhạc Khúc Ca Ngày Mùa là tui nhớ nhạc sĩ Lam Phương, nghĩ mà thương người nhạc sĩ tài danh này quá mạng. Nghe đâu bây giờ ổng ở bên Tây rồi cô à, già rồi mà lại đau yếu dữ lắm. Tui nghe con cậu Ba Sáng cho hay tin như vậy, mà phát rầu.

Người nghệ sĩ nào cũng lăn lóc gió sương mà!!! Nghệ sĩ như anh tư Phan với anh Sáu cũng lăn lóc gió sương tuốt luốt cả đời cô Út thấy hông? Rồi còn thêm mấy ông nghệ sĩ như anh Ba Trần, anh Hai Thanh, anh Tám Khôi, anh Năm Dư, với chị Sáu Thu nữa, cũng đều nghèo ráo trọi. Hồi tui còn nhỏ trong Bàu Hút có cô đào Thanh Hương nhà cũng khá mà cô có máu nghệ sĩ nên theo đoàn Kim Chưởng hát nổi tiếng khắp miền. Cô hát hay lắm nghe cô Út. Cứ mỗi lần gánh Kim Chưởng dìa đình là bà con ai ai cũng mua vé đi coi để nhìn được tận mặt gà nhà. Bà con quê tui thương Thanh Hương dữ lắm!

Trong làng này coi vậy mà dân ca hát cũng bộn, nhưng phần đông là ca tài tử chứ có đi hát cho gánh nào đâu cô, nên mỗi người có hai nghề buộc chặt, nghề cày cấy với nghề đờn ca, chỉ có Thanh Hương là gạo cội nhe cô Út.

Cô Út,

Không ca thì thôi, mà đã ca thì phải thuộc bài ca nghe cô. Tối nào, anh Tư Phan cũng đứng bên kia bờ kinh kêu tui: “Anh Hai Trầu ơi, bữa nay huởn ráng học thuộc bài ca để có dịp đờn ca nữa nhe anh Hai. Anh sao đi đâu hoài vậy?” Tui nghe mà cười muốn bể cái bụng, rồi ngẫm nghĩ lại mình, mà mắc cỡ thầm trong bụng, mình mà ca hát cái nỗi gì, trời đất!

Nói lòng vòng ba điều bốn chuyện để cho cô tỏ tường chuyện bên kinh xáng Bốn Tổng này. Còn cô với dượng Út sắp nhỏ thì sao? Cơm ngon canh ngọt là chánh yếu phải hông cô? Còn hai đứa nhỏ ai giữ để cô với dượng đi cày, đi cấy. Coi vậy mà cũng cực dữ lắm chứ chẳng phải giỡn chơi, nhưng bên đó có cày cấy gì thì cũng đi xe hơi bon bon trên đường nhựa như bài học thuộc lòng hồi tui còn nhỏ tả chiếc xe tắc xi: “Ai sáu máy bon bon đường nhựa, tôi năm tôn chất chứa bao người… ” đó mà.

Ngôi mộ đứng tại Tân An, Thủ Thừa

Hôm trước, tui có viết một lá thơ hỏi thăm anh chị Hai Tân An mạnh khỏe, rồi sẵn dịp hỏi luôn cái vụ trời trồng ở Tân An, nhưng chưa có thơ trả lời của anh chị Hai, nên nóng ruột quá mạng, tui phải mò lên Tân An, Thủ Thừa hết mấy bữa để tìm hiểu cái mả chôn đứng cho rõ nguồn cơn.

Xem thêm:   Cái chai quý

Sẵn dịp tôi có đi ngang qua trường Sư phạm Cộng đồng Long An hồi năm nẳm, rồi lân la dò hỏi mới vỡ lẽ ra đây không phải cái mả trời trồng Cô Út à. Đầu đuôi là bà già nằm dưới mộ không phải bị trời trồng mà bả chết vì bịnh già. Hồi còn sống bà thuộc gia đình danh giá, giàu có nên tiền dư bạc để xài không hết mới cho con qua Tây đi học. Đến khi bà mãn phần, con bà ở bên Tây dìa mới bắt chước kiểu xây mả như bên Tây mà xây cho bà cái mả nhọn hoắt như hình tam giác dựng đứng không giống ai. Người qua kẻ lại hỏi nhau sao cái mả lạ kỳ quá vậy. Vì mục đích răn dạy con cái ăn ở với cha mẹ cho có hiếu đạo, nên có người vọt miệng nói tướng đứng là người chết bị chôn đứng vì vác dao rượt mẹ nên bị trời trồng. Vậy mà rồi cứ lan truyền mả bị trời trồng xuống tới miệt vườn, miệt rẫy dưới này.

Đâu phải vậy rồi thôi đâu cô Út, khắp miền từ Sài Gòn xuống Chợ Gạo, Mỹ Tho vô Mộc Hóa, Kiến Tường, qua Cao Lãnh, Bến Tre, Ba Tri… đâu đâu cũng đồn đãi y như vậy cho tới bây giờ. Mãi tới hôm qua, tui mới vỡ lẽ ra là vậy, nhờ bà con ở vùng này với một vài người ở Chợ Gạo, Thủ Thừa đều xác nhận đó không phải mả bị trời trồng mà chung quy chỉ muốn răn đời thôi cô Út!

Chỉ có vậy mà mấy chục năm nay tui mới biết được rõ đâu là hư đâu là thực. Tui mừng quá, nên lẹ lẹ viết cái tin này cho cô liền đây, không thôi lại sợ lây lất rồi quên tuốt luốt giống như kỳ đó tui kể cô nghe vụ cây mắm trong “Rừng Mắm” đó mà. Chuyện gì biết mà không kể lại liền là quên vì tánh của tui càng già càng mau quên dữ lắm đó cô. Vậy là qua cái vụ này, tui mỗi lần đi ngang qua Tân An không còn thắc mắc về cái mả đứng nữa rồi.

Thôi viết ít chữ thăm cô Út. Gởi lời tui thăm dượng Út sắp nhỏ cùng hai đứa cháu mạnh giỏi. Bên này, mấy anh ai cũng gởi lời thăm cô Út hết trọi, nhất là các anh Sáu, Tư Phan, Ba Trần là thăm nhiều nhứt hạng. Lâu lâu, tui viết cho cô cái thơ khác nhưng tiền cò cũng nặng lắm cô Út, tới 12,300 đồng đặng chứ đâu phải ít. Nhưng không sao, miễn gạt vài thùng lúa là đủ tiền cò, tiền rượu rồi, cô khỏi gởi tiền dìa làm bận lòng em út, mà tui cùng cắn rứt lắm.

 

Cuối thơ,

(còn tiếp)