Vừa là nhà phê bình văn học vừa là người viết sử, Thụy Khuê đã hoàn tất nhiều công trình công phu: Nhân Văn Giai Phẩm – Vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tự Lực Văn Đoàn – Văn học và Cách Mạng, Vua Gia Long và Người Pháp… Có thể xếp Thụy Khuê vào khuynh hướng duyệt xét lại lịch sử trong mục đích tìm kiếm sự thật, hay ít nhất những gì đã xảy ra trong quá khứ còn có thể thu thập được qua văn bản mà không chịu tác động của tuyên truyền, cùng các định kiến.
Lịch sử Truyền giáo và chữ Quốc ngữ là nghiên cứu đồ sộ sau cùng của Thụy Khuê. Chương viết về Trương Vĩnh Ký với sưu khảo dày đặc tài liệu nói lên công sức của bà đang cho cách nhìn khác về một nhân vật được xem là vĩ nhân đất Việt. Trương Vĩnh Ký có xứng đáng không? Câu trả lời của Thụy Khuê đầy nghiêm khắc: Trương Vĩnh Ký xứng đáng nhận Bắc đẩu Bội tinh của xứ Đại Pháp.
Đồng ý hay không, trước nhất phải đọc những tài liệu mà Thụy Khuê tìm thấy. [Trần Vũ]
Chương 11 – Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
Phần VII:
Cuộc xâm lăng của Pháp dưới ngòi bút Trương Vĩnh Ký
Thụy Khuê
Kỳ cuối
Dẫn đường cho Maybon, Cadière
Từ những lời bịa đặt của Trương Vĩnh Ký về việc vua Gia Long dạy [sai] Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định, học giả Cadière, năm 1920, trích câu sử gia Maybon phóng tác để ca tụng công trạng những người lính đào ngũ này trong cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820), như sau:
“Họ [những sĩ quan Pháp] đã xây dựng một ngành hải quan theo lối Tây phương, thành lập các thủy thủ đoàn, huấn luyện quân lính; đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập cấp chỉ huy; đúc đại bác, dạy cho người Việt cách dùng trái phá, lập đội pháo binh dã chiến mà sự lưu động khiến quân Tây Sơn khiếp sợ; họ đã xây dựng các thành đài.” [57]
Năm 1921, Cadière viết bài diễn văn chào mừng Thống Chế Joffre đến kinh lý Đông Dương ngày 3-1-1922, tựa đề: Notes sur le corps du génie annamite (Ghi chú về đội công binh An Nam)[58] nhưng thực chất là để vinh thăng công lao của “những vị sĩ quan Pháp đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế Kỷ XIX, cứu nguy Gia Long và giúp ông hoàng này lấy lại vương quốc”. Trong bài này, Cadière khoa trương và xác định lại rằng các vị “ân nhân” này đã xây dựng thành trì, đào tạo ra đội ngũ công binh An Nam, thực hiện tất cả những công trình thành quách trải dài từ năm 1804 đến 1844, trên lãnh thổ Việt Nam!
Thời Gia Long là các thành: Thanh Hoá, Huế, Quảng Ngãi, Hải Dương, Thái Nguyên, Vĩnh Long, Khánh Hòa, Bình Định.
Thời Minh Mạng là các thành: Hưng Hóa, Sơn Tây, Quảng Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Cao Bằng, Định Tường, Quảng Yên, Nghệ An, Hưng Yên, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Nam, An Giang, Hà Nội, Gia Định, Phú Yên, Bình Thuận, Quảng Trị, Biên Hoà [59].
Tóm lại, Trương Vĩnh Ký chính là người đầu tiên, dẫn đường cho sử gia Maybon và học giả Cadière, viết nên những thành tích hoang tưởng của những người lính Pháp đào ngũ. Những điều họ viết, ngang nhiên trở thành “lịch sử”.

Petrus Trương Vĩnh Ký trong y phục triều nhà Nguyễn
Tạo ra hệ thống vẽ bản đồ bịa đặt
Để “chứng minh” những công trình xây dựng bịa đặt này, chính quyền thuộc địa tung ra hệ thống bản đồ vẽ các thành trì Việt Nam có răng cưa, theo kiểu Vauban, mà Nguyễn Đình Đầu đã sử dụng trong bài Địa lý Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, in trong sách Địa chí Văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh [60]. Những bản đồ bịa đặt này, được sử dụng rộng rãi trong các sách lịch sử địa lý viết về Việt Nam, và ngày nay được chuyển tải trên Internet.
Nhưng các thành Diên Khánh, Huế, Hà Nội, Sơn Tây… ngày nay vẫn còn sờ sờ ra đó; tường lũy thẳng tắp, không hề có một pháo đài nào lồi ra theo kiểu Vauban, nên chúng ta có thể kiểm chứng tại chỗ, không cần đến “tài liệu”, đến “sử sách”.
Một thủ đoạn nữa, cũng cần nói ra: Năm 1863, khi dịch sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1820) sang tiếng Pháp, Aubaret đã loại hẳn Quyển VI, Thành trì chí, bởi vì trong quyển sách này, Trịnh Hoài Đức ghi rõ lịch sử xây cất của hầu hết các thành trì ở miền Nam, bắt đầu với thành Gia Định, ghi tên các quan phụ trách việc đắp thành. Thời Gia Long, tất cả thành trì đều đắp đất, đến thời Minh Mạng mới xây gạch.
Tóm lại, từ một thông tin bịa đặt của Trương Vĩnh Ký: “Vua dạy Olivier và Le Brun xây thành Gia Định”, Cadière phóng đại thành huyền thoại quân Pháp xây thành Vauban trên toàn thể nước Nam, và chính quyền thuộc địa thuê người vẽ tập bản đồ các thành trì ở Việt Nam, có răng cưa theo kiểu Vauban, để phổ biến.
Năm 2017, chúng tôi về Sơn Tây và Hà Nội, vẫn còn thấy người ta rao giảng cho du khách đến thăm thành Sơn Tây và Thăng Long, rằng đây là thành Vauban do người Pháp xây!
Bài diễn văn Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, Trương Vĩnh Ký đọc tại trường Thông ngôn, được Imprimerie Coloniale (Nhà in Thuộc Địa) in năm 1885 ở Sài Gòn; nội dung chép lại những điều bịa đặt: Gia Long sai Olivier xây thành Gia Định, Minh Mạng tàn ác giết Nguyễn Văn Thành v.v. Cuốn sách này được Nguyễn Đình Đầu dịch là Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, và cho in thành sách, kèm với các bản đồ Pháp vẽ thành Gia Định với răng cưa, theo dạng Vauban (do nxb Trẻ, in năm 1997): Sự ngộ nhận vẫn chưa chấm dứt.
Mở đường cho linh mục Louvet và những người đi sau
Khoảng 10 năm sau cuốn Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình lịch sử An-Nam) (1875-1877) của Trương Vĩnh Ký, linh mục Louvet, tiếp tục khai triển khía cạnh “tàn sát đạo Chúa” và biến Minh Mạng thành “bạo chúa Néron” trong bộ sách La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở nước Nam), được hầu hết các tác giả Việt-Pháp trích dẫn và tin cậy.
La Cochinchine Religieuse (2 cuốn) do linh mục Louis-Eugène Louvet (1838-1900) (đã sống ở Việt Nam từ 1873 đến 1896), viết năm 1883, in năm 1885 [61], đây là bộ sách thứ ba bôi nhọ nhà Nguyễn, có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, sau Ký sự Bissachère và Giáo trình lịch sử An Nam của Trương Vĩnh Ký.
Vì tác giả là giáo sĩ thừa sai đã sống dưới thời Tự Đức, cho nên La Cochinchine Religieuse được coi như cuốn lịch sử tử vì đạo đích thực và chân chính, ghi lại “sự tàn sát” đạo Gia Tô dưới thời các “bạo chúa” Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Cuốn sách này phát huy sự căm thù của giáo dân đối với triều đình và kích động chính quyền thực dân xúc tiến việc chiếm lĩnh toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Rất nhiều lời tuyên bố của các giám mục, linh mục, về “sự tàn ác” của vua Minh Mạng và Tự Đức, đều được trích dẫn hoặc phỏng theo sách này.

Chúng tôi đã trình bày trong chương 8, phần III, cách Louvet “mô tả” chúa Hiền “xử tội voi dầy” đứa bé gái tên là Lucie. Vẫn với “phong cách” như thế, Louvet tạo ra hai “bạo chúa” mới là Minh Mạng và Tự Đức. Chỉ cần chép lại một câu vị linh mục viết về cái chết của vua Minh Mạng, cũng đủ thấy sự căm thù của Louvet đối với Minh Mạng, không thua kém gì Trương Vĩnh Ký:
“Vài tuần sau đó [62], kẻ tàn sát cũng lên hầu toà Thượng Đế: Ngày 20 tháng Giêng năm 1841, Minh Mạng bị ngã ngựa, chết bất thình lình và đạo Thiên chúa mà y quyết tâm tận diệt vẫn sống, sống mạnh mẽ hơn, qua mười năm chiến đấu, tự hào với hàng ngàn linh mục và hàng trăm người tử tội. Vì tự mình làm kẻ tàn sát đạo, tên bạo chúa đã bị thần dân của y kinh tởm và có biệt hiệu là bạo chúa Néron Việt Nam. Thay vì lùi, đạo Chúa đã tăng trưởng trong cuộc tranh đấu bền bỉ và đã chiến thắng vinh quang. [63]
Tóm lại, để biện hộ cho sứ mệnh truyền giáo, và tạo cho cuộc xâm lăng của Pháp một chính nghĩa, hai ngòi bút Trương Vĩnh Ký và Louvet, đã không nề hà trong việc ngụy tạo lịch sử.
Tinh thần này sẽ được giới thừa sai và viết sử quảng bá trong hầu hết các sách sử Pháp Việt.
Ba điểm quan trọng trong sách Giáo trình lịch sử An nam của Trương Vĩnh Ký được Louvet tiếp tay truyền bá:
1 – Bội bạc với công ơn của người Pháp giúp vua Gia Long dựng lại cơ đồ.
2 – Đổ tội cho các vua nhà Nguyễn trách nhiệm mất nước.
3 – Biện minh cho cuộc xâm lăng của Pháp bằng cách thổi phồng sự tàn sát đạo Thiên chúa của nhà Nguyễn và nêu cao thiên chức cứu đạo của đoàn quân viễn chinh.
Được thể hiện rất rõ trong bài Tựa cuốn L’Empire d’Annam (Đế Quốc Annam) của Gosselin, 1904:
“Những vị hoàng đế nước Nam; bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi bảo, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.” [64]
Nhưng không chỉ có sử gia Pháp, hai sử gia lớn Việt Nam, dù có tham khảo các bộ sử biên niên Thực lục và Liệt truyện, cũng không loại được đầu óc kết tội nhà Nguyễn «ngu muội, tàn ác, làm mất nước», do Trương Vĩnh Kỳ tiên phong gieo rắc từ những năm 1875, 1879.
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược(1920):
“Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước Y Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh lấy nước ta vậy” [65]
Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử (1961):
“Ngài [Tự Đức] không hiểu rõ thời thế, cứ tưởng chỉ có nước Tầu, nước Việt Nam mới là văn hiến (…) phần đông các quan đại thần lúc bấy giờ như các ông Nguyễn Đăng Giai, Trương Đăng Quế, Võ Trọng Bình, Nguyễn Tri Phương… đều là hạng người bảo thủ (…) người nước ta còn cho người Âu Châu cũng như rợ Đột-khuyết đời Đường, rợ Kim đời Tống mà thôi. (…) Vì vậy, vua Tự Đức đối với đạo Thiên chúa và với người Tây Dương cứ theo chánh sách của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị (…) cho nên khi vua quan đã sai đường, lầm nẻo thì cả nước bị bại vong.” [66]
Kết luận: Ngay sau khi Pháp chiếm xong miền Lục tỉnh, Trương Vĩnh Ký mở đầu chiến dịch trá mạo lịch sử, xây dựng huyền thoại về công lao của người Pháp, mạt sát vua Minh Mạng, cấp củi lửa cho linh mục Jouvet sáng tạo thêm những “tội ác” của Minh Mạng đối với đạo Gia Tô, gọi Minh Mạng là bạo chúa Néron. Những trá mạo này, vì không ai phản đối hoặc viết lại vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ, trong sử sách.
Trương Vĩnh Ký đã hoàn thành công tác lớn lao đối với chính quyền thuộc địa: Xuyên tạc và mạ lỵ Minh Mạng. Tố cáo trách nhiệm mất nước là tại nhà Nguyễn. Chấp nhận cuộc xâm lăng của Pháp là chính đáng.
(Hết phần VII)
Thụy Khuê
thuykhue.free.fr
[57] Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) Lịch sử hiện đại nước An Nam (1592-1820), Plon-Nourrit, Paris, 1920, trang 279.
[58] Notes sur le corps du génie annamite (Ghi chú về đội công binh An Nam, BAVH, số 1921, trang 284-288.
[59] Notes sur le corps du génie annamite (Ghi chú về đội công binh An Nam, BAVH, số 1921, trang 287.
[60] Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1987.
[61] Louvet sinh tại Rouen ngày 17-5-1838, thụ phong linh mục ngày 19-12-1863. Ngày 14-8-1872, gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Đi miền tây Nam Kỳ ngày 29-1-1873. Ở lại Việt Nam đến 1896, bị liệt và qua đời tại Sài Gòn ngày 2-8-1900, chôn trong mộ Bá Đa Lộc.
[62] Ý Louvet muốn nói: sau khi “tra tấn và giết chết” giáo sĩ Gilles Delamotte (nhưng người này không có tên trong danh sách tử vì đạo của Hội Thừa Sai).
[63] Nguyên văn tiếng Pháp: “A quelques semaines de là, leur persécuteur les suivait au tribunal de Dieu. Le 20 Janvier 1841, Minh-mang succombait presque subitement à la suite d’une chute de cheval, et la religion chrétienne qu ‘il s’était promis d’anéantir était toujours vivantese faire persécuteur, le tyran avait gagné l’exécrationde ses sujets et le surnom de Néron annamite. loin de reculer, le christianisme avait progressé dans cette lutte implacable,dont il sortait finalement victorieux”.Louis-Eugène Louvet, Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse,1885, tập II, t. 115-116.
[64] Nguyên văn tiếng Pháp: “Les empereurs d’Annam, par leur ingratitude envers les brillants Francais, officiers de Gia Long, dont le concours leur assura la possession de leur trône, par leurs cruautés envers les missionnaires nos compatriotes, par leur fol entêtement à se maintenir isolés du monde entier, par leur mépris pour notre civilisation occidentale que, dans leur ignorant orgueil, ils qualifiaient barbarie, par leur constant refus, enfin, d’entretenir avec toutes les nations du monde, la Chine seule exceptée, des relations diplomatiques, ces empereurs, dis-je, sont responsables de la décadence et de la ruine de leur pays; ils en supporteront seuls, la honte devant l’histoire” Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, Librairie Académique Didier, Perrin et Cie, Libraires-Editeurs, 1904, trang XVII.
[65] Trần Trọng Kim,Việt Nam Sử Lược, bản Bộ Quốc Gia Giáo dục, 1971, trang 242.
[66] Phan Khoang,Việt Nam Pháp thuộc sử, Sống Mới, Sài Gòn, 1961, trang 105-106.









