“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Lung Ngọc Hoàng(*)

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng Tư, năm 1999

 

Chú Bảy sắp nhỏ,

Hổm rày tui dìa dưới này cũng buồn thúi ruột. Ba cái lúa lỡ, làm thêm kiếm gạo, mùa này sạ xong được hai mươi ngày rồi chú Bảy Luân à! Lúa cũng tàm tạm vậy thôi chứ chẳng tốt tươi gì vì mấy bữa rày nắng hạn khô rang khô khốc. Trời thì mây kéo đen mấy bận mỗi ngày nhưng gió nồm Rạch Giá thổi ngang qua vùng kinh xáng Bốn Tổng này ào ào nên mây trôi giạt dìa miệt Cần Say, Xép Bà Lý, Trà Ôn, Long Xuyên hết trơn rồi. Thành ra đất khô thì cứ khô, lúa héo đọt thì cứ tiếp tục héo đọt, bụi nào bụi nấy tóp rọp thấy phát rầu chú Bảy Luân à!

Nhớ hôm trước tui có chỉ đường chú tìm lung Ngọc Hoàng ở giữa cánh đồng Hòa An, Chương Thiện trổ qua Phụng Hiệp, nơi ngã Bảy đi vô đó mà, nhưng rồi sực nhớ lại tui thấy lo và cũng mến mộ tấm lòng ham đi câu cá của chú quá mạng.

Tui cứ ngồi ngẫm nghĩ lại chuyện đời, nhiều lúc sao mà quá khó hiểu nghe chú Bảy. Cái lung Ngọc Hoàng này không cạn mà sao chú Bảy Luân này muốn vô đó kiếm cá, kiếm lươn. Rồi ra, cá lươn không biết được mấy con nhưng chắc thể nào cũng gặp mấy con đỉa trâu có cái dè vàng khè phát gớm.

Chú nhớ ruộng, nhớ lung là quý nhưng không biết chú cho kham nổi cảnh đỉa, vắt, muỗi, mòng nó bu, nó cắn thả giàn ở nơi hoang dã này không? Máu me đâu mà đem cho không như vậy, thiệt là uổng quá mà!

Tui cứ thầm van vái cho chú đi lạc xuống tới Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu cho rồi, để chú nản, rồi chú lại trở dìa chốn phồn hoa đô hội lo chuyện vợ con, gia đình, lo công ăn chuyện làm. Có như vậy, tôi mới không thấy xốn xang trong bụng. Riêng phần tui, để một mình cái thân già còm này chịu cực đủ rồi vì tui cũng cực khổ quen rồi chú Bảy ơi.

Anh Hai Trầu của chú cái gì thuộc về văn minh tiến bộ thì tui nói thiệt với chú là tui quá cù lần. Chứ ba cái vụ lội bùn lội ruộng, lặn đìa lặn lung, nơm cá dỡ chà, giăng câu đặt lờ là tui không thiếu món nào, nên tui quen rồi cái nắng mưa kham khổ, trở trời trở gió nghịch đời. Chú đừng lo cho thân hình ốm nhom, ốm nhách của tui nghe chú Bảy. Tui chịu đựng cực khổ quen rồi. Tới mấy đời làm ruộng, chứ ít ỏi gì! Ngày ngày tui nghe gà gáy là cơm gói mo cau ra ruộng, rồi đợi cho chùa công phu tới hiệp chót mới bò dìa tới ngoài bờ tre. Vậy mà riết rồi quen như mỗi lần tui lặn xuống sông móc bùn bồi vườn là cứ ở trần, cầm tới dây vàm sau lưng đôi bò và cái cày là miệng tự động hô “phá”, “ví” như mắc phải khẩu nghiệp.

Xem thêm:   Tàu đêm năm cũ (*)

Bữa nay, tui nhận được cái thơ tay của chú nhờ người quen mang vô trong kinh này, tui mừng quá là mừng. Nhưng đọc cái thơ của chú có kèm theo bài thơ chú làm theo thể gì lạ quá nhưng sao tui vẫn thấy băn khoăn trong lòng từ hồi chiều tới giờ vẫn còn bồi hồi.

Lung Ngọc Hoàng – nguồn suckhoedoisong.com

Nhất là hai câu cuối chú làm tui nghe như không yên trong bụng: “Anh cày nơi ruộng rẫy,  Đâu thấy hồn tui gẫy hai…”(*) Tui biết cái  “hồn” của chú “gẫy hai” rồi mà, vì cách nay chừng hai mươi bốn năm, lúc tui bằng tuổi chú bây giờ, hồn của tui chẳng những đã gẫy hai mà còn bầm giập nữa mà! Nên tui xin chú đừng trách anh Hai tội nghiệp.

Sao mà lạ quá chú Bảy Luân? Ở đời cái gì cũng có đôi, có cặp hết trọi vậy chú? Cho nên khi bị “gẫy hai”, thì ai cũng buồn ráo trơn. Nhớ hồi tui còn nhỏ đi học trường làng, cứ mỗi lần mua gói bắp hầm năm cắc, đưa tờ giấy một đồng, bà bán bắp vội xé hai tấm giấy một đồng. Bà thối lại cho tui một nửa, một nửa còn lại bà nhét vào cái hộp thiếc đựng tiền. Lúc ấy tui còn nhỏ xíu mà tui đã nghĩ chắc đồng bạc giấy nó đau đớn lắm chú Bảy! Thời kỳ xài tiền xé làm hai là vậy! Từ hồi đó tới giờ có ai kể cho chú nghe không?

Còn biết bao nhiêu mà kể cho hết cảnh đau lòng vì bị “gẫy hai”, phải hông chú Bảy? Rồi ở trên chú còn viết: “Nơi quê hương anh đang đi về quá đẹp: đẹp như bức tranh, Những địa danh Cái Côn, Cái Răng, Phụng Hiệp…. thiện thân mời gọi. Mà sao Anh đi hoài không tới. Tui mòn mỏi mơ thôi. Những địa danh Việt Nam sao xa! Xa quá Trời!”(*)

Chú Bảy Luân ơi,

Tui đi hoài mà đi không tới là tại vì tui già quá là già rồi chú Bảy! Tui mỏi mệt dữ lắm rồi! Vả lại, bảy năm dư, tui đã lặn hụp trong cái lung Ngọc Hoàng đầy cá và cũng đầy đỉa nữa, tui ngán ngẩm quá, nên tui không muốn tới cái vũng Trời đó nữa chú Bảy Luân à!

Còn chú thì “mòn mỏi mơ thôi”! Tui cũng hiểu cái lòng của chú bấy lâu nay. Chú còn quá trẻ mà, lo gì mà không có “con đường lui tới”. Phải vậy hông chú Bảy? Chừng đó, chắc chú không sợ lạc đường vì tui đã có chỉ đường cho chú đi về dưới vùng ruộng lúa đó rồi. Nhưng không biết còn cái cảnh “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh” giống ở vùng Cạnh Đền dưới miệt U Minh không?

Xem thêm:   Ở chung nhà

Cái thơ đã dài, mà chú lại cho biết chú đi xa tới hai, ba ngàn cây số, ngồi xe đò ngủ gà, ngủ gật ngày này qua đêm khác, chắc chú mệt đừ, nên tui cũng ngừng cái thơ này ở đây để cho chú ngủ nghê cho bớt mệt. Hôm nào rảnh rang, tui biên cho chú cái thơ khác đọc cho đỡ buồn… Thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi nghe.

Cuối thơ,

Hai Trầu

(*) Hồi âm bài thơ của Luân Hồ Triệu: “Đưa Anh Về Ruộng Rẫy” (Kính tặng anh Hai Trầu)

Cây khế tháng Tư

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng Tư, năm 1999.

 

Gởi Chú Bảy Luân sắp nhỏ,

Mấy bữa rày, dưới này trời nóng hầm quá chú Bảy. Mưa thì không mưa, nắng cũng không nắng. Trời cứ ầm ĩ tối ngày. Mây mới tụ lại che mắt mặt trời một hồi, bỗng gió đâu thổi ngang qua làm mây tan ráo trọi.

Trời tháng Tư mà! Tháng Tư là tháng cóc nghiến răng, cho nên trước sau gì rồi ông Trời sẽ nổi trận lôi đình làm mưa một trận, chẳng khác nào “Ông tha mà Bà không tha” vào ngày mùng Ba tháng Mười đó chú Bảy Luân à!

Trưa nay, tui vừa nằm võng treo tòng teng dưới bụi tre bông, đọc lại mấy câu nói về những ngày “về vườn” của thầy Nguyễn Hiến Lê ở khúc đường Gia Long, dưới Long Xuyên, tui  nhớ hồi còn nhỏ tui đi ngang qua nhà của thầy hoài. Nhưng hồi đó, đâu có đứa học trò nào dám nhìn vô nhà, chỉ liếc liếc rồi chân vượn chân nai bước cho lẹ, sợ thầy thấy mặt. Rồi tôi đang mơ mơ màng màng nhớ lại tuổi thơ của tui, chợt có thằng cháu nội chạy vô vỗ vỗ vai tui, nó kêu giật ngược: “Ông nội ơi, có thơ chú Bảy Luân trên Cây Me gởi cho nội.”

Chú Bảy Luân ơi,

Buồn ngủ mà bắt được cái thơ của chú là hai con mắt già của tui nó sáng lên liền. Tui kêu thằng cháu nội nấu cho tui một bình trà rồi đem ra đây cho ông nội. Thằng nhỏ dạ dạ rồi chạy vô nhà lui cui nhúm lửa nấu nước mang ra cho tui. Mấy đứa lớn đi đồng đi bái hết ráo nên tui đọc cái thơ thiệt là lâu, nghiền ngẫm từng chữ, mà thiệt tình tui không ngờ chú viết cái thơ nó buồn đến như vậy. “Tháng Tư Cây Me, Cây Mai, Cây Gõ” là tháng Tư trầm thống, chú làm tui nhớ ngày quảy gói “về vườn”. Tui sứt móng chưn, đau lên chết xuống cũng bởi những ngày tháng Tư eo xèo, ảm đạm. Chú kể chuyện ở Cây Mai, Cây Gõ, Cây Me, chỗ nào cũng buồn. Tui dìa dưới kinh xáng Bốn Tổng này cũng bành thân trí mạng, chứ đâu phải chuyện chơi.

Rồi đọc câu này của chú, tui nhận ra tui, mà phục tài của chú: “Đất trời kinh xáng dân cày bừa ná thở, Quên lời thơ tắt thở từ bao giờ…”

Chú Bảy Luân ơi,

“Tháng Tư Dương Đào”, một bài thơ của thi sĩ nào, tôi không nhớ tên, nhưng tui nhớ hoài ông nội tui hồi còn sống hay cắt nghĩa hai chữ “dương đào” là cây khế chú Bảy à! Tui nhớ chuyện đời xưa “ăn khế trả vàng, may túi ba gang” mà liên tưởng đến bài thơ “Tháng Tư Cây Me, Cây Mai, Cây Gõ” của chú. Khế chua rồi ngọt, chắc me chua rồi me dốt, me chín cũng ngọt nữa hả chú Bảy?

Xem thêm:   Drama thật & giả

Còn mấy câu này nữa, chú làm tui nghĩ lung tung: “Chiều về quán Cây Me, Gặp bài thơ bút tre, Miệng thì cười nứt nẻ, Ruột đau mắt đỏ hoe, Đêm tàn bên ly rượu, Tri âm lạc cuối trời!” Chú làm tui nhớ hai câu Kiều hồi xưa ông nội tui nhắc đi nhắc lại hoài: “Nàng rằng gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.”

Đọc thơ chú tui mới nhớ lại nhiều điều quá sức tưởng tượng của một người già như tui, nên chú cho tui khất lại kỳ tới nghe chú Bảy, tui sẽ nói nhiều hơn. Tui xin phép gửi chú mấy câu này để chú đọc chơi cho khuây khoả:

“Thương bạn trẻ, lòng tràn nhiệt huyết,

Nhớ non sông, nát ruột tan lòng.

Lòng nào, lòng khỏi não lòng,

Phút giây mới đó, vời trông mấy mùa.

 

Dìa kinh xáng, hai mùa mưa nắng,

Thân tui già, khoai sắn cầm chừng.

Bao năm cơ cực đã từng,

Thương cho em trẻ, người dưng chợ đời!

 

Mùa lúa mới, mùa mưa chưa tới,

Nắng khô rang, mây chửa chuyển vần.

Cây Me, Cây Gõ cũng gần,

Gửi thăm chú Bảy, “tri âm” còn hoài.

 

Thơ tui gởi, chắc lâu mới tới,

Chú đừng trông, đừng đợi hao mòn.

Từ đây lên đó một đường,

Hôm nào gặp chú cho tường anh em.”

Gởi lời thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi nghe.

 

Cuối thơ,

Hai Trầu

Anh Bảy Láng Linh

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 5, năm 1999

 

Kính gởi anh Bảy Láng Linh,

Tui với anh bằng tuổi, nhưng vì anh con của bác Ba, tía tui thứ Út, nên tui phải kêu anh bằng anh Hai như vậy cho có lớp lang thứ tự, để con cháu sau này bắt chước. Chứ không thôi, sau này con cháu của anh về kinh xáng Bốn Tổng thăm mồ mả Ông Bà, tụi nhỏ nó quên tuốt luốt, cứ gọi như Mỹ “du, du”, “mi, mi” là bỏ mạng sa tràng anh Bảy à!

Anh Bảy ơi,

Từ ngày anh lưu lạc giang hồ qua tới bên kia trời Tây rồi, không biết có lúc nào anh nhớ cái gốc Láng Linh không? Nơi cái vùng đất phèn đó nhưng là một thời Phật Thầy Tây An nhập thế cứu đời. Láng Linh quê anh là vùng đất Phật. Cánh đồng Láng Linh bao la. Phía bắc gần giáp với núi Sam trên Châu Đốc; phía đông cặp theo sông Hậu Giang; phía tây nó lấy Thất Sơn làm biên giới; và phía nam nó nằm cặp theo đồng Bảy Thưa. Quê ngoại tui trên Mặc Cần Dưng lấy con lộ đi Tri Tôn làm xương sống, chạy theo con đường này đi một khoảng chừng vài ba chục cây số là gặp Láng Linh không mấy hồi. Nhắc một chút địa thế như vậy để anh có dìa thăm thì dễ nhớ mà khỏi lần mò nhiều khi bị lạc đường lạc xá lên tuốt trên Miên. Mình già rồi mà cứ lạc đường hoài chắc sẽ mệt dữ lắm anh Bảy?

(còn tiếp)