Tạm mượn câu ca dao “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ…” để hình dung ánh sáng điện thắp sáng rộng rãi ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20.

Ảnh chụp khu vực chợ Thủ Đức năm 1913 vẫn còn các ngọn đèn đường đốt bằng dầu hoả (Ảnh: Bưu Thiếp)

Thuở ấy, mạng lưới điện thắp sáng gần như trải rộng trên các đường phố trung tâm Sài Gòn, thay cho các ngọn đèn đường đốt bằng dầu hoả. Những khu vực ngoại ô thành phố và các vùng đô thị lân cận của tỉnh Gia Định giáp ranh Sài Gòn vẫn còn nhiều ngọn đèn đường đốt bằng các loại dầu. Trong khi đó, tại Mỹ Tho (khi đó còn là thủ phủ Nam bộ) chưa có mạng lưới điện, ngoài một vài cơ quan chính quyền hoặc ở vài khu vực trung tâm, đèn được thắp sáng theo một số giờ quy định (chạy bằng máy phát điện). Do đó, người đời có sự so sánh qua câu ca dao: “Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu”.

Tại một số khu vực dân cư đông đúc, hoạt động nhộn nhịp, chính quyền Pháp cho lắp đặt 17 cụm đèn chùm tại bến Cầu ông Lãnh, đường Catinat nối dài (nay là Đồng Khởi), đường Isabelle II (sau là Espagne, nay là Lê Thánh Tôn), bắt đầu từ đường  Hôpital (nay là đường Pasteur) và đường Impériale nối dài (sau là Paul Blanchy, nay là Hai Bà Trưng). Năm 1876, cả thành phố Sài Gòn có 255 cột đèn gồm 200 cây bằng gang, số còn lại bằng gỗ. Và mãi đến năm 1893 các cột điện mới được tăng lên 393 cột cho các con đường bao quanh trung tâm các công trình dinh thự, cơ quan chính quyền. Tuy nhiên, việc tăng thêm công suất phát điện là một vấn đề khó cho chính quyền thành phố giải quyết vì kinh phí hạn chế.

Đến năm 1897, điện thắp sáng mới được cung cấp cho nhà ở công chức cao cấp, các công trình dinh thự, cơ quan nhà nước và các cơ sở kinh doanh thương mại của người Pháp và người Hoa. Năm 1908, toàn thành phố Sài Gòn có 867 bóng điện thắp sáng đường phố, cải thiện đáng kể bộ mặt hoa lệ của Sài Gòn về đêm. Ông Nguyễn Liên Phong viết trong Nam Kỳ phong tục diễn ca, miêu tả đường Catinat (Tự Do) rằng: “Đường đi trơn láng, đèn giăng sáng loà”.

Nhà máy điện Chợ Quán xây năm 1922, cung cấp điện cho cả Sài Gòn Chợ Lớn (Nguồn: Manhhaiflickr)

Nhu cầu năng lượng điện (nhiệt điện) ngày càng gia tăng theo dự án mở rộng thành phố Sài Gòn, trong khi điện thắp sáng hầu hết vẫn còn sử dụng từ máy phát điện chạy bằng dầu, máy móc phải đốt bằng củi, xe lửa chạy bằng hơi nước gây ảnh hưởng, làm trì trệ công cuộc phát triển và khai sáng các xứ thuộc địa. Điều này khiến nhà nước Pháp gấp rút tìm ra biện pháp khắc phục bằng cách đưa nhiều kỹ sư sang Việt Nam thiết lập các dự án vừa xây dựng hạ tầng thành phố vừa phát triển công nghiệp cho toàn Đông Dương.

Xem thêm:   Nghề nuôi hàu

Suốt nhiều năm, cho đến khi dự án thí điểm thử nghiệm xây dựng một nhà máy phát điện có công suất nhỏ (nhà máy phát điện) sau lưng Nhà Hát Lớn thành phố. Năm 1896, công ty Société d’Électricité de Saigon (SEVS) được thành lập để cung cấp điện cho thủ đô của Nam Kỳ. Cũng trong năm đó, công ty đã khai trương trạm phát điện xoay chiều đầu tiên trên đường Nationale (Hai Bà Trưng). Năm 1967 trở thành trụ sở công ty Sài Gòn Điện Lực, và sau 1975 là trụ sở của Công ty Điện lực thành phố.

Thời đó, dân xứ mình không gọi trạm phát điện hay nhà máy điện mà gọi là nhà đèn. Đơn giản là họ nghĩ cái thứ năng lượng làm ra chỉ đó để đốt đèn. Đúng như vậy, đốt đèn là việc chính để thay thế đèn đường đốt bằng dầu hoả và chiếu sáng các công sở mà việc thử nghiệm đầu tiên là Nhà Hát Lớn và thắp sáng đèn trên một phần đường Catinat (Tự Do). Một điều nên biết, trước đó vài ba năm, tại trụ sở Messageries Maritimes (Cảng Nhà Rồng), hàng trăm bóng đèn đã được thắp sáng bằng một máy phát điện nhỏ. Đối với dân chúng Sài Gòn nhìn thấy Cảng Nhà Rồng sáng rực về đêm là một kỳ quan của sự văn minh.

Nhà máy nhiệt điện Thủ Đức trong thời gian xây dựng năm 1966 (Nguồn: manhhai flickr)

Từ năm 1908, công ty SEVS bắt đầu cung cấp điện chiếu sáng cho đường phố Sài Gòn, ban đầu được giới hạn chỉ ở vùng trung tâm thành phố. Một năm sau, công ty CEE (Compagnie des Eaux et d’Électricité de Saigon), nghĩa là Công ty Điện Nước Sài Gòn mua lại SEVS. Công ty CEE có nhiệm vụ cung cấp nước cho các vùng Chợ Lớn, Sài Gòn và cả Nam Vang. Sau đó, công ty bắt đầu mở rộng cung cấp điện cho toàn thành phố Sài Gòn. Khi khai trương chợ Bến Thành năm 1914, hàng ngàn bóng đèn được chiếu sáng toàn bộ khu vực bên trong và bên ngoài chợ tạo dấu ấn văn minh cho người dân Sài Gòn. Người ta tổ chức hội chợ suốt 3 đêm dưới ánh sáng đèn vàng, xanh đỏ và tiếp theo đó, hạ tầng xe lửa hơi nước được thay thế bằng điện, chuyển đổi thành xe điện di chuyển khắp Sài Gòn- Chợ Lớn- Gia Định.

Xem thêm:   Chuyến đi chót của Rip

Tuy vậy, đến năm 1922, CEE Pháp bắt đầu cho xây dựng nhà đèn Chợ Quán. Ban đầu, điện cũng chỉ đủ cung cấp thắp sáng cho số ít hãng xưởng hoặc nhà ở của công chức, giới thương buôn người Hoa. Dân chúng lao động dù là người Hoa hay người Việt sống trong hẻm hóc hay cư dân vùng ngoại ô vẫn thắp sáng bằng đèn dầu hoặc khá hơn một chút thì đốt đèn khí đá cho đến sau khi chiến Tranh Đông Dương kết thúc.

Theo một tài liệu cho biết: “Cuối năm 1945, CEE gặp phải hai khó khăn lớn. Do quân đồng minh vào Việt Nam giải giáp, phong tỏa kinh tế nên số thiết bị và nồi hơi mà công ty đặt mua mãi đến một năm sau mới lấy về được; số than đá được cung cấp từ Hòn Gai ngày càng khó khăn, sau đó ngưng hẳn. Các nhà máy điện phải dùng đủ thứ để đốt lò như vỏ trấu, bắp, than bùn. Công ty buộc ngưng cung cấp điện cho mấy tỉnh phía bắc Sài Gòn. Năm 1945 – 1946 sản lượng điện sụt giảm thê thảm. Mức cung cấp điện cho giờ cao điểm Sài Gòn – Chợ Lớn chỉ đạt 4,200 kW, trong khi dân số thành phố ngày càng gia tăng. Sau đó, công ty CEE đã nỗ lực đưa công suất và sản lượng điện gia tăng bằng cách đầu tư trang bị máy móc cho nhà máy điện Chợ Quán, đến năm 1951 thì công suất nhà máy này lên 36,200 kW. Phần hơi nước gồm chín nồi hơi nước với năng lực sản xuất mỗi giờ là 135 tấn hơi nước, trong đó 3 nồi được làm lại mới hoàn toàn để sử dụng dầu mazut. Nhận thấy những thay đổi trên cũng chưa đủ cung cấp điện cho nhu cầu rất lớn của Sài Gòn – Chợ Lớn nên CEE đã thực hiện chương trình đầu tư kéo dài 5 năm với kinh phí trên 2 tỷ Franc. Họ phục hồi nhà máy đèn Cầu Kho bằng cách lắp đặt 3 nhóm máy diesel với công suất 900 kW mỗi máy, trang bị thêm hai nhóm máy phát điện, 4 nồi hơi có áp suất lớn hơn, mua thêm một máy phát điện tuôcbin công suất 12,000 kW. Đến đầu năm 1954, công suất thiết kế của cả hai nhà máy Chợ Quán và Cầu Kho đã đạt được 54,000 kW. CEE tiếp tục mở rộng mạng lưới phân phối điện, tăng số trạm biến thế và chiều dài đường cáp ngầm”.

Một số trạm biến áp của Công ty Điện lực do Pháp quản lý còn tồn tại ở Sài Gòn sau năm 1975 (Nguồn: Internet)

Mặc dù, CEE cố gắng tăng công suất nhưng với sự phát triển đô thị và dân số tăng nhanh do người dân di tản về Sài Gòn tránh chiến tranh, nên ngành điện không cách nào đáp ứng được nhu cầu cung cấp điện cho toàn thành phố. Bên cạnh sự không cân đối về cung cấp điện, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đại bộ phận dân nghèo thành phố không có điện xài là do chiến tranh Pháp – Việt đang dần tàn cuộc. Và mặc dù nước Pháp đã chấm dứt sự hiện diện trên toàn Việt Nam từ năm 1955, nhưng công ty CEE vẫn hoạt động đến năm 1967, trước khi các hoạt động về điện được công ty Sài Gòn Điện Lực thu nhận vào năm 1967.

Xem thêm:   Quê hương mới & những ân tình

Năm 1966, Cơ quan Viện trợ Kinh tế và Văn hoá Mỹ bắt đầu xây dựng nhà máy nhiệt điện Thủ Đức nhằm tăng cường cung cấp điện cho toàn thành phố. Đây là khoảng thời gian tôi nhớ rõ nhất khi nhân viên công ty điện lực Sài Gòn đi gắn trụ điện trong các con hẻm của vùng Hoà Hưng nơi tôi cư ngụ. Nhà nào cũng được gắn đồng hồ điện. Tất nhiên là phải làm đơn và đóng tiền. Tuy vậy, trong xóm nhỏ của tôi chừng hai ba chục nóc gia, nhà có đồng hồ điện chiếm chưa tới phân nửa. Đa số là dân lao động nghèo nên muốn có điện đốt bóng đèn đành câu nhờ hàng xóm trả tiền mỗi tháng theo thoả thuận.

Ngày nay, nếu các bạn đi dạo một vòng Sài Gòn vẫn còn thấy một số trạm biến điện trên các đường phố ghi ký hiệu tên công ty của mình chẳng hạn CEE 1966. Sau năm 1967, các trạm biến thế đổi lại là SĐL (Sở Điện Lực) đúng theo khế ước CEE ký với chính quyền.

TN