Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, cả về hành chính lẫn kinh tế, văn hóa, giáo dục của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được Pháp mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” (“la perle de l’Extrême-Orient”) hoặc một “Paris nhỏ ở Viễn Đông” (“le petit Paris de l’Extrême-Orient”).

Đường Catinat (Tự Do) năm 1950, là trung tâm sinh hoạt của người Pháp (Ảnh: LIFE)
Có lần, tôi hỏi mấy người bạn lớn tuổi hầu hết họ trưởng thành sau năm 1954 đều làm công chức, tức là họ có được một nền học vấn thời Pháp. Câu hỏi như vầy: “Người Pháp khi xây dựng thành phố Sài Gòn với diện tích khoảng 3km2, họ mong muốn biến nơi đây thành một Hòn ngọc Viễn Đông với những công trình tráng lệ theo kiến trúc của Paris. Vậy thì khi đó biểu tượng của thành phố là gì? Người nói biểu tượng cho thương mại kinh tế là Chợ Bến Thành, Thương xá Tax, khách sạn Continental; người khác cho biểu tượng văn hoá nghệ thuật là Nhà hát Lớn, Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt, biểu tượng tôn giáo là Nhà thờ Đức Bà, biểu tượng cho chính quyền là Dinh Thống Đốc (Dinh Độc Lập ngày nay), Dinh Xã Tây (Toà Đô Chính). Tóm lại là quá nhiều biểu tượng, không như ở Paris có Tháp Eiffel hay Tượng Nữ thần Tự Do ở New York, chỉ cần một biểu tượng là đủ.
Tất cả các công trình này và còn một số công trình khác như Bưu Điện hay Toà án hoặc những biệt thự, khu nhà dân cư đều được chụp ảnh làm bưu thiếp, khi các công trình cơ bản quy hoạch thành phố Sài Gòn bắt đầu hình thành theo nghị định do Quyền thống đốc Nam kỳ, Chuẩn đô đốc Pierre Rose ban hành ngày 3-10-1865. Tuy vậy mãi đến hơn 30 năm sau, Sài Gòn mới hoàn thành xây dựng cơ bản. Mặc dầu không có biểu tượng cụ thể nhưng trước đó Sài Gòn có một logo không rõ tác giả tên gì, vẽ đâu khoảng năm 1870. Đó là hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Bên dưới là dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là: “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với 5 châu 4 biển.
Đúng vậy, Sài Gòn lúc ấy bắt đầu lắp những con kênh có từ thời xây dựng thành Gia Định ngay trung tâm khu vực quận 1 ngày nay. Theo đề án quy hoạch của Trung tá Coffyn vạch định, Sài Gòn chỉ rộng khoảng 3km2 (gần bằng một nửa quận 1 hiện nay (rộng khoảng 8km2), bao bọc bởi sông Sài Gòn – Kitchener (Nguyễn Thái Học) -Chasseloup Laubat (Hồng Thập Tự, sau là Nguyễn Thị Minh Khai) – rạch Bến Nghé. Đến khi xây dựng xong chợ Bến Thành mới, thì thành phố Sài Gòn gần như hoàn chỉnh và người Pháp tự hào mệnh danh đó là Hòn ngọc Viễn Đông.

Logo biểu tượng Sài Gòn được vẽ từ năm 1876 (Nguồn: Internet)
Sài Gòn quả là nhỏ, chỉ cần đi xa 20 km là có thể săn thú rừng. Chính quyền thuộc địa tập trung tất cả những gì sang trọng, giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3km2 này, phần còn lại của Sài Gòn thì vẫn còn rất hoang sơ, đầm lầy ngổn ngang. Theo Sơn Nam trong “Bến Nghé xưa” thì khi Chợ Bến Thành hoàn thành năm 1914, “trước mặt còn là ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ”.
Không cần nói đâu xa ở Chợ Lớn, chỉ cần bước ra khỏi ranh giới Sài Gòn của thập niên 1910, thì chỉ toàn ao tù nước đọng, nhà tranh vách lá, mồ mả xen kẽ nhà cửa tạm bợ. Ngay cả khu vực Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối trên đường Nguyễn Thái Học, ranh giới Sài Gòn khi đó cũng là nơi bát nháo, tệ nạn xã hội tràn lan, nhà cửa lụp xụp. Nói chung bước ra khỏi ranh giới 3km2 là khu vực ngoại ô, hai hình ảnh tương phản trong cuộc sống, giữa giàu và nghèo, giữa dân đen và chính quyền công chức.
Theo cụ Vương Hồng Sển ghi chép lại thì danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” do người Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó: “Ngủ khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò beefsteak, uống rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp, hút thuốc phiện và chơi gái, thì đối với thủy thủ tàu viễn dương và đám thực dân đến từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là hòn ngọc Viễn Đông đâu có gì lạ… Nó hoàn toàn không phải là “hòn ngọc” với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui…”.

Toà Đô Chánh vừa xây hoàn thành cũng là biểu tượng Sài Gòn (Ảnh: Bưu thiếp)
Trên thực tế, Sài Gòn cũng không phải là nơi duy nhất ở Đông Á được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Trong thời kỳ này, mỗi cường quốc phương Tây đều đặt cho một thành phố thuộc địa nào đó của họ ở Đông Á là “Hòn ngọc Viễn Đông”, như Manila (thủ đô nước Philippines, thuộc địa của Mỹ), Hồng Kông (thuộc địa của Anh) Sri Lanka, quốc đảo ở Nam Á (thuộc địa của Anh), Phnôm Pênh (thủ đô Cambodia, thuộc địa của Pháp) cũng được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Danh hiệu này mang tính phô trương giữa các nước thực dân phương Tây với nhau về đời sống xa xỉ của quan chức sống ở thuộc địa chứ không phản ảnh đời sống thực tế nghèo nàn của người dân địa phương. Ngoài ra, dân số và nền kinh tế giữa các “Hòn ngọc Viễn Đông” này cũng có sự chênh lệch rất lớn, và Sài Gòn khi đó vẫn còn kém rất xa các đô thị lớn trong khu vực như Singapore, Hồng Kông, Kuala Lumpur, Jakarta, Manila hay Bangkok. Ví dụ, Hồng Kông năm 1941 đã có 1.6 triệu dân, Bangkok năm 1938 đã có 890,000 dân, Manila năm 1939 cũng đã có 623,500 dân trong khi Sài Gòn lúc này vẫn chưa có quá 250,000 dân, tức là nhỏ hơn rất nhiều.
Nhà báo Phạm Quỳnh từng sang Singapore năm 1922, đã ghi lại quang cảnh ông chứng kiến như sau: “Cửa (cảng) Hải Phòng, cửa Sài Gòn của ta kể cũng khá to, nhưng so sánh với cửa Singapore này thì còn kém xa nhiều… Xe hơi ở Singapore, thật không biết cơ man nào mà kể, nào xe riêng, nào xe thuê, cả ngày chạy như mắc cửi. Vào đến Sài Gòn, thấy xe hơi chạy đường Catinat (Tự Do) đã nghĩ là nhiều, nhưng xe hơi ở Singapore lại còn nhiều hơn nữa, và ở Singapore thì đường phố nào cũng to đẹp như đường Catinat hết thảy”.

Chợ Bến Thành mới xây xong năm 1914, được xếp là biểu tượng thành phố (Nguồn: Manhhaiflickr)
Tuy vậy, đối với Sài Gòn tuyến đường Catinat được ví như trái tim của thành phố khi tập trung nhiều điểm vui chơi, giải trí của thành phố. Hàng loạt nhà hàng, khách sạn mọc lên dọc trục đường đã quy tụ giới tinh hoa, giàu có về tiêu xài, hưởng thụ. Các công trình được xây trên khu đất đẹp, cao ráo, hướng ra dòng sông uốn lượn bao quanh là rừng. Trên kênh Lớn (đường Nguyễn Huệ nay) hay kênh Xáng (đường Hàm Nghi) có những khu chợ thông thương với sông Sài Gòn tấp nập người mua kẻ bán. Một thị trấn giữa rừng dần chuyển mình phát triển như ý nghĩa gửi gắm trong logo Sài Gòn năm 1876.
Những thương nhân ở ngoại quốc đến cảng Sài Gòn trao đổi, buôn bán đều ấn tượng với thành phố này và truyền miệng nhau tên gọi “Hòn ngọc Viễn Đông” của Sài Gòn ra khắp thế giới. Giao thông đường thủy được người Pháp ưu tiên phát triển, kênh Bến Nghé – Tàu Hủ trở thành tuyến thông thương chính cho thuyền bè từ Đông Nam bộ, miền Tây vào sâu trong Sài Gòn đến vùng Chợ Lớn. Tiếp theo tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương dài 70 km nối Sài Gòn – Mỹ Tho cũng được xây dựng. Đường sắt đã hút một lượng lớn khách ở Sài Gòn thời điểm đó. Năm 1902, cầu Bình Lợi được khánh thành đưa vào sử dụng. Cây cầu nối liền tuyến đường sắt đi miền Trung.
Từ sau 1954, Nội chiến diễn ra cũng như người dân nông thôn đổ về thành phố ngày một đông khiến nó bị quá tải. Sài Gòn xuất hiện nhiều khu ổ chuột, người dân sống nhếch nhác ven kênh rạch, điều kiện vệ sinh, an ninh kém. Từ đây “Hòn ngọc Viễn Đông” chỉ còn trong ký ức.
TN