Dòng thời gian là bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Không gian chuyển mình theo bát tiết. Đời sống con người dường như cũng “chia” theo từng mùa như thế.

Á Ðông chia cuộc sống thành bốn giai đoạn: sinh-lão-bệnh-tử. Tất nhiên trật tự này không phải lúc nào cũng theo thứ tự và chẳng phải ai cũng được trải nghiệm đủ bốn giai đoạn ấy. Có người vừa “sinh” đã đi thẳng một mạch đến “tử” chưa kịp đi qua giai đoạn “bệnh” hoặc “lão”. Cũng có người may mắn trải nghiệm cuộc đời theo đúng thứ tự sinh-lão-bệnh-tử và theo nhân sinh quan Á Ðông cổ truyền, quý tuổi thọ, xem việc sống lâu là phước hạnh.

Người phương Tây cũng nhìn đời sống theo từng giai đoạn ấy theo khía cạnh “phát triển” hoặc “thay đổi” [tâm thần] qua thời gian. Hình như có sự tương đồng và dị biệt giữa phương Ðông và phương Tây: Thơ ấu (tương đương với “sinh”?) – trưởng (khôn lớn) – thành đạt – suy thoái. Giai đoạn nào con người cũng trải qua những vui/buồn, sướng/khổ; cũng phải thay đổi cách sống để thích nghi với được/mất. Những kinh nghiệm ấy giúp con người “phát triển” và “trưởng thành”.

Ở phương Tây, giai đoạn I là giai đoạn “bắt chước”: Trẻ em mới chào đời hoàn toàn lệ thuộc vào người chung quanh, chẳng thể tự làm bất cứ việc gì nên cần được nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ. Trẻ em tự bẩm sinh đã biết nhìn ngó rồi bắt chước hành động của người chung quanh. Sống với người “ăn to nói lớn”, đứa trẻ cũng “ăn to nói lớn”; người chung quanh nhỏ nhẹ ngọt ngào trẻ em cũng nhẹ giọng. Ít ra là thủa “ban đầu”. Lớn hơn chút nữa, chơi đùa với bạn bè, đứa trẻ học thêm các thói quen khác, nhận ra như thế nào là “bình thường” theo tiêu chuẩn của xã hội nhỏ xíu chung quanh. Rất sớm, đứa trẻ nhận ra “tiêu chuẩn” sống và sinh hoạt theo các tiêu chuẩn ấy để hòa đồng và được “chấp nhận”.

Tất nhiên là có những biệt lệ. Có đứa trẻ không theo “khuôn phép”, và được cha mẹ chấp nhận sự “độc lập” (trong một giới hạn nào đó), cho phép đứa trẻ phát triển theo cá tính. Nhưng cũng có phụ huynh không thuận lòng với sự “cứng đầu” của con em nên ép buộc và trừng phạt nó.

Xem thêm:   Loanh quanh, vụn vặt

Không được phát triển theo khuynh hướng “tự nhiên”, bị kiềm tỏa, đứa trẻ có thể không bao giờ ra khỏi giai đoạn “bắt chước”, chỉ biết làm theo và luôn cố gắng làm vui lòng người chung quanh để khỏi bị phiền trách. Tạm hiểu là cách “sống cho người khác”.

Khác với giai đoạn I là học hỏi để thuận thảo, sống “theo dòng”; giai đoạn II là lúc tìm hiểu sự khác biệt giữa “ta” và người chung quanh. Giai đoạn này là lúc bắt đầu tự quyết định, tự thử thách và tự thẩm định “cái tôi”. Trong giai đoạn II, người trẻ “thử” nhiều thứ, từ việc sống riêng, kết bạn, lập chương trình đi chơi xa, thử các món thức ăn, uống mới lạ, đến ngay cả thử ma túy, bia rượu… Việc khám phá ấy đem lại những điều hay và cả những thứ tệ hại. Người trẻ khôn ngoan (và may mắn) nhận biết và học tập những điều “hay”; loại bỏ những thứ “dở”.

Giai đoạn II chấm dứt khi ta nhận biết sự giới hạn của mình (nằm trong lứa tuổi 20 – 30). Người chấp nhận giới hạn hẳn sẽ an vui hơn so với người tiếp tục “thử”, và “thách” dù sau nhiều lần không thành công. Ðại khái là biết chấp nhận “giới hạn” của mình.

Còn những người không chịu thua, cho rằng cuộc sống không có giới hạn nên cứ tiếp tục “thử” nên chuốc lấy thất bại. Ðây là những người “giậm chân tại chỗ” trong giai đoạn II, không chịu trưởng thành, không “biết mình là ai”!

Cuộc đời ngắn ngủi, không phải giấc mơ nào cũng hiện thực. Khi hiểu được giới hạn của mình, ta sẽ tiêu xài thời gian vào những thứ quan trọng và bỏ qua những thứ khác. Sự lựa chọn của ta sẽ kỹ lưỡng và chính xác hơn.

Sau khi con người đi hết quãng đường “tìm kiếm” và nhận ra giới hạn cá nhân thì sẽ đến giai đoạn tự “cam kết” là dồn nỗ lực vào các mục đích chính. Ðây chính là giai đoạn III, giai đoạn loại bỏ những viễn mơ không bao giờ hiện thực. Từ đó, tập trung vào các hoạt động đã thành công mỹ mãn và các hoạt động giúp ta thăng hoa. Ðây là lúc con người thực sự đóng góp với xã hội. Giai đoạn III cũng là lúc con người phát huy hết tiềm năng, đóng góp cho gia đình, xã hội. Ta để lại cho đời những gì? Người chung quanh sẽ nhớ những gì về ta? Thanh danh hay ô danh?… Ðây là cơ hội cho con người để lại cho xã hội một chút gì khác với lúc chào đời.

Xem thêm:   Lang thang & người trẻ

Giai đoạn III, kéo dài từ tuổi 30 và chấm dứt khi con người cảm thấy chẳng còn gì để có thể hoàn tất và cảm thấy mệt mỏi, già nua, chỉ muốn thong dong, thụ hưởng sự nhàn rỗi. Nhưng cũng có những người không chịu già, bất kể tuổi tác, vẫn tiếp tục say mê theo đuổi các mục đích mới, cũ; luôn tìm kiếm những thứ “kế tiếp”. Ðây là nhóm người năng động trong tuổi 70-80.

Vào giai đoạn IV, con người đã trải qua trên dưới nửa thế kỷ đầu tư vào công việc, vào các hoạt động được xem là quan trọng đối với cá nhân họ. Làm việc cật lực, kiếm ra tiền bạc, lập gia đình hoặc nổi tiếng về khía cạnh nào đó, và đến lúc “rửa tay gác kiếm”. Dừng tay vì sức khỏe không còn sung mãn hoặc hoàn cảnh không thuận lợi nữa.

Giai đoạn này không còn là lúc tạo lập “di sản” mà là tìm cách bảo tồn, duy trì “di sản” ấy sau khi xuôi tay nhắm mắt. Hoạt động trong giai đoạn này thật giản dị như trợ giúp, chỉ dẫn con cháu trưởng thành và “sống” qua sinh hoạt của con cái. Thời điểm này quan trọng về mặt tâm lý vì con người nhận biết rằng, ai rồi cũng sẽ qua đời và việc sửa soạn tinh thần khiến ta bớt sợ hãi cái chết và bình an hơn.

Những nhà triết học, xã hội học, tâm lý học… mày mò mổ xẻ và tách rời các giai đoạn sống như thế để giúp con người hiểu biết, chấp nhận và tìm cách sống trọn vẹn với thời gian trong vùng không gian chung quanh. Khi hiểu biết và chấp nhận những sự việc hiển nhiên, không thể trốn tránh giúp ta bình an hơn.

Xem thêm:   Sản phẩm & người tiêu thụ

oOo

Sự “chuyển tiếp” giữa các giai đoạn nhân sinh thường bắt đầu từ những biến cố gây đau đớn, mất mát. Chết hụt. Ly dị. Mất người yêu thương. Ðổ vỡ tình cảm. Các biến cố ấy khiến con người dừng chân, soi gương tự vấn và thẩm nghiệm chuyện cũ để nhận biết các thất bại cũng như những thành công và phước hạnh.

Việc chuyển tiếp sang một giai đoạn mới không dễ dàng và hiển nhiên, con người có thể “giậm chân tại chỗ” trong mỗi giai đoạn khi cảm thấy chưa vừa ý, thấy mình kém cỏi.

“Giậm chân tại chỗ” ở giai đoạn I là khi cảm thấy mình “dở” và khác biệt với người chung quanh. Do đó thường cố gắng tỏ ra “hợp thời”, cố gắng bao nhiêu dường như cũng chưa đủ. Ở giai đoạn II, dấu hiệu của việc “giậm chân tại chỗ” thường là các nỗ lực làm thêm, mỗi ngày một nhiều, các công việc mới; bao nhiêu thứ mới lạ xem ra vẫn chưa đủ. Trong giai đoạn III, con người chưa “chín muồi” vì vẫn cảm thấy chưa đóng góp đủ với gia đình xã hội, chưa gây được “tiếng vang” ước muốn. Cuối cùng, trong giai đoạn IV, suy nghĩ chưa làm đủ “di sản” để lại cho con cháu, xã hội nên thúc đẩy con người tiếp tục xông pha, hoạt động dù tuổi trời đã cao và thân xác đã mòn mỏi.

Chữ “túc” xem ra là biểu tượng quan trọng nhất, giúp con người vượt thoát các luẩn quẩn giữa những giai đoạn nhân sinh!

Nhìn chung, đời sống vẫn cứ tiếp chảy, con người tuần tự trải nghiệm các giai đoạn nhân sinh khác nhau. Khi biết “đủ” và chấp nhận những giới hạn cá nhân, con người sẽ thụ hưởng các món quà của đời sống một cách dễ dàng, bình an hơn.

TLL

(The Denial of Death by Ernest Becker)