Đại dịch xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và an nguy của con người mà còn đến nền kinh tế nữa. Các doanh nghiệp bị đóng cửa nên nhiều người bị lay off, bị furlough.

Furlough là tạm thời không làm việc

Từ này thường gặp trong thời gian chính phủ đóng cửa, trong thời đại dịch coronavirus hiện nay.

Nói chung, nhân viên không được trả lương trong thời gian furlough nhưng vẫn được hưởng các phúc lợi khác như bảo hiểm sức khỏe.

Nhân viên không được làm bất cứ điều gì liên quan đến công việc, khi họ trong tình trạng furlough.

Furlough kéo dài bao lâu là tùy thuộc vào chủ doanh nghiệp. Họ thường quyết định cho nhân viên furlough hơn là lay off vì chi phí cho thôi việc hoặc tuyển dụng đều tốn kém.

Từ furlough theo nghĩa ban đầu là “cho phép quân nhân được nghỉ phép”, mượn ở “verlof” tiếng Hòa Lan có nghĩa như leave của Anh ngữ.

Layoff là từ để dùng khi một chủ nhân cho thôi việc nhân viên. Tức là những nhân viên này được để cho đi (laid off) khỏi công việc họ làm.

Layoff được dùng khi chủ nhân để cho công nhân ra đi vì không còn trả được lương cho họ nữa, hoặc vì việc kinh doanh sa sút hoặc vì những lý do kinh tế khác, không nhất thiết vì nhân viên không làm tốt được công việc.

Tình trạng khi có nhiều nhân viên cùng bị cho nghỉ việc một lúc được gọi là mass layoff. Chữ mass ở đây có nghĩa: liên quan tới, ảnh hưởng tới nhiều người.

Sick leave là cho phép “nghỉ việc, thôi nhiệm vụ” vì đau ốm. Leave (danh từ) có nghĩa “được phép vắng mặt”, cũng thường dùng như “leave of absence”. Nếu nghỉ mà được hưởng lương thì gọi là “paid leave”, “paid time off hoặc gọi tắt là PTO. Còn nghỉ không lương là leave without pay (LWP).

Nhân viên làm việc toàn thời gian (Full-time employees – FTE) thường được hưởng paid leave và sick leave.

Nhân viên bán thời gian (Part-time employees – PTE), hoặc làm khoán, không được hưởng phúc lợi đó và thường dễ bị layoff.