69 Năm Điện Biên Phủ – 1954 – 2023

Trần Vũ

Nhân ngày tang của đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhật trình cánh tả Le Monde số ra ngày 4 tháng 10-2013 đăng bài “Anh hùng của nền độc lập Việt Nam đã chết” (Le général Giap, héros de l’Indépendance vietnamienne, est mort) của ký giả thân Cộng Jean-Claude Pomonti từng bị chính phủ VNCH và Hoàng gia Miên trục xuất.

Năm 2004, Pomonti quay lại Hà Nội và thực hiện phỏng vấn Võ Nguyên Giáp.

Pomonti ghi:

“Giáp say mê Nã Phá Luân và trong tất cả những chiến thuật của Bonaparte, Giáp giữ lại yếu tố bất ngờ. Trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, Giáp kêu lên: ‘Việc Bonaparte đào thoát khỏi đảo Elbe về đất liền cầm quân, là tuyệt vời!’ Giáp muốn nhắc đến việc vua Louis XVIII gửi ngự lâm quân chặn bắt Nã Phá Luân nhưng rồi đạo quân ấy đã theo hoàng đế. Một nháy mắt của Giáp về sự trung thành của các tướng lĩnh đối với chính mình. […] Giáp còn là một thiên tài tiếp vận. Một ngày, Giáp nhắc lại với chúng tôi phương châm mà Bonaparte vận dụng khi hành binh sang Ý: ‘Nơi nào một con dê chui qua, một người lính có thể vượt qua. Nơi nào một người lính có thể đi qua, một tiểu đoàn có thể hành quân.’ Giáp nói tiếp: ‘Ở Ðiện Biên Phủ, để cung cấp 1 ký gạo cho bộ đội đang vây cứ điểm, dân công tiêu thụ 4 ký trong lúc vận chuyển. Chúng tôi đã dùng 260,000 dân công, 20,000 xe đạp, 11,800 bè gỗ, 400 xe vận tải Molotova và 500 ngựa.’ Dưới sự che chở của rừng rậm, đại bác Việt Minh đã được tháo rời từng cơ phận để mang lên các ngọn đồi nhìn xuống lòng chảo, rồi ráp lại.” [1]

Là ghi chép của Jean-Claude Pomonti.

Với những ai quan tâm chiến tranh, nếu đã có một thiên tài thực sự, thì thiên tài đó phải là Trần Ðăng Ninh, tổng cục trưởng Tổng Cục Hậu Cần đã cung cấp vũ khí, thuốc men, đạn dược, lương thực cho quân đoàn tác chiến chủ lực Việt Minh trong suốt 9 năm chiến tranh, không bao giờ thiếu, bất kỳ địa hình trận đánh. Một Trần Ðăng Ninh mà trong hồi ký Võ Nguyên Giáp không một lời tri ân. Trừ phi… chính các cố vấn Tàu: trung tướng Vu Bộ Huyết

chủ nhiệm Quân Nhu-Quân Dụng, thiếu tướng Mã Tây Phu  chủ nhiệm Tổng cục Tài Chính-Lương Thực, thiếu tướng Lý Học Thư  Quản lý-Vật tư …phụ trách hết mọi việc?

Trên các trang sử Bắc-Việt, trước đó, thường xuyên số dân công được ghi 25,000. Phía Pháp ước tính sai 70,000 cho trận Ðiện Biên. Lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp cho biết sử dụng 260,000 dân công. Cưỡng bách hay tình nguyện? Những ai đã sống trong Nam ngay sau 75 biết rõ: mỗi hộ, mỗi tổ dân phố phải cắt cử người đi lao động XHCN cho đủ chỉ tiêu phường-quận. Vào thời chiến, chắc chắn là một bắt buộc ở những vùng “giải phóng”. 260 ngàn dân công là gấp 10 lần con số chính thức của Quân đội Nhân dân đưa ra, nói lên nhiều điều: Mọi thứ bị biên tập. Khác xa sự thật. Cho chiến thắng thêm vang dội. Phải đến 2022 Quân đội Nhân dân mới thừa nhận 261 ngàn dân công.

Phần quan trọng trong tường thuật của Pomonti không nằm ở đây, mà trong câu hỏi về việc kéo pháo ra khỏi thung lũng, lui ngày tấn công đã ấn định 25 tháng 1 sang 13 tháng 3-1954.

Xem thêm:   Mạ Thủ & Cò Mù

Võ Nguyên Giáp đáp, bằng Pháp văn: “Le chef de nos conseillers chinois s’était prononcé pour une attaque rapide. Je donne l’ordre de retirer les troupes, y compris l’artillerie. La décision la plus difficile de ma carrière de commandant en chef.” (Cố vấn trưởng Trung quốc muốn đánh nhanh. Tôi ra lệnh rút quân ra, kể cả pháo binh. Là quyết định khó khăn nhất trong binh nghiệp Tổng chỉ huy của tôi.)

Cố vấn trưởng Trung cộng lúc ấy là thượng tướng Vi Quốc Thanh (Wéi Guóqing).

Trong chương Quyết Chiến Ðiện Biên Phủ, đăng trong Thượng Tướng Phong Vân Lục, Nxb Ðại Bách Khoa Toàn Thư in tại Bắc Kinh năm 2000, Vương Chấn Hoa  cho một phiên bản khác: Chính Vi Quốc Thanh  lấy quyết định trì hoãn tấn công và đổi phương thức đánh nhanh, thọc sâu, giải quyết chiến trường thay vì “nở hoa từ trung tâm” bằng cách áp sát “bóc măng từng lớp”. [2]

Đâu sự thật?

Sự thật không nằm trong những lý lẽ mà Võ Nguyên Giáp cũng như Vi Quốc Thanh viện dẫn, và một cách trùng hợp cả hai cùng viện dẫn chung những lý lẽ: Quân đoàn Tác chiến Việt Minh chưa chuẩn bị đủ; cần đưa Sư đoàn 308 sang đột phá Thượng Lào để Navarre phải phân tán binh lực; các đại đoàn trưởng chưa tin chắc thắng. Các lý lẽ này ít đứng vững. Trước mỗi chiến dịch Việt Minh đều rèn quân chỉnh cán, chiến sĩ và cán bộ chỉ huy đều phải học tập thông suốt đường lối chỉ đạo, thấm nhuần ý chí quyết thắng cũng như tuyệt đối tin vào đường lối đúng đắn của Ðảng. Không được quyền băn khoăn, vì sẽ bị xem là “dao động”, chưa “giác ngộ”, còn “hữu khuynh”, chưa gột rửa tinh thần tiểu tư sản ngại gian khổ, chưa “quyết tâm phấn đấu”… Trên mặt quân sự, với 5 sư đoàn chính quy 304, 308, 312, 316, 351 cộng thêm trung đoàn độc lập 148 lên đến 60,000 lính, Việt Minh chiếm ưu thế tuyệt đối về quân số. Binh lực Pháp đã bị phân tán trước đó, không cần Sư đoàn 308 đánh Thượng Lào, vì Navarre đã huy động toàn bộ trừ bị (53 tiểu đoàn) tái chiếm Quy Nhơn-Bình Ðịnh-Sa Huỳnh-Quảng Ngãi cho chiến dịch Atlante đang diễn ra. Quân đồn trú Ðiện Biên Phủ (14 tiểu đoàn) không hề giảm đi sau khi Sư đoàn 308 sang Lào. [Xem Michel Grintchenko, L’Opération Atlante, Les Dernières illusions de la France en Indochine, Nxb Economica, 2008].

Lui ngày tấn công, như thế không thay đổi cục diện. Với công sự không đủ sức chịu pháo, không đường bộ tiếp tế, khả năng không trợ kém, mười ngàn binh sĩ Liên hiệp Pháp tại Mường Thanh không có lối thoát giữa rừng núi vây bọc.

Nhưng như vậy, thì vì sao Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh bất ngờ lui tấn công một tuần trước khi khai trận? Lui tấn công còn cho De Castries thêm thời gian củng cố chiến lũy. Vì sao?

Chính vì Hội nghị Bá Linh bắt đầu ngày 25 tháng 1-1954, là ngày ấn định khai chiến ban đầu. Anh, Pháp, Nga, Hoa-Kỳ ngoài bàn đến vị trí của Ðức sau thế chiến, còn tìm cách giải quyết “vấn đề Ðông Dương”. Nga-sô yêu sách thành công sự tham gia của Trung cộng trong kỳ thương thuyết thứ nhì sẽ diễn ra vào tháng 4-1954 tại Genève. Chính đây mới là nguyên nhân lui tấn công sang giữa tháng 3 của Võ Nguyên Giáp (hoặc Vi Quốc Thanh). Chính từ lúc này Bắc Kinh sẽ gia tăng viện trợ tối đa cho Việt Minh “chắc thắng” để Chu Ân Lai đến Genève trong thế thượng phong.

Xem thêm:   Big Red Bash Lễ hội âm nhạc giữa lòng sa mạc!

Nếu chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị, như Clausewitz định nghĩa, và với ai am hiểu tổ chức của các quân đội Cộng sản từ Nga sang đến Tàu rồi Việt Minh, thì một quyết định ngưng ngang quan trọng như vậy phải do Mao gửi công điện cho Vi Quốc Thanh hoặc Hồ Chí Minh yêu cầu Võ Nguyên Giáp trì hoãn. Cá nhân Võ Nguyên Giáp không thể lấy một quyết định ảnh hưởng đến cục diện cuộc chiến mà không thông qua Tổng bí thư kiêm Tổng quân ủy Trung ương là Trường Chinh lúc đó. Về vai trò của Trường Chinh, báo Cứu Quốc ra ngày 23 Tháng Ba 1951 viết: “Hồ chủ tịch là linh hồn của cách mạng và kháng chiến, thì ông Trường Chinh là bàn tay điều khiển, chỉ huy.

Phi cơ Morane MS.500 Criquet của Phi đoàn 21 Quan sát Pháo binh (21e Groupe Aérien d’Observation d’Artillerie) tại Bắc Việt – Hình của Phòng Thông Tin Quân Đội Pháp (ECPA).

Vậy vì sao

đã ngưng ngang?

Vì cả Mao và Hồ Chí Minh đều muốn biết kết quả Hội nghị Bá Linh diễn ra cuối tháng Giêng. Cả hai không muốn dốc hết vốn liếng vào một canh bạc. Chu Ân Lai phải có mặt ở Genève thì Ðiện Biên Phủ mới nặng nghìn cân, ngược lại, chỉ là một trận đánh như trận chiến lũy Nà Sản trước đó. Cho đến khi ấy ngoài khối Cộng sản, Trung cộng chưa được công nhận như một quốc gia Trung Hoa mà vị thế chính thức còn là Ðài Loan. Chiến tranh Cao Ly khiến Bắc Kinh bị cô lập. Một mình Nga-sô sau “băng hà” của Staline không đủ sức nặng. Sự có mặt của Chu Ân Lai mới làm lệch cán cân. Tầm quan trọng của Hội nghị Bá Linh là đây. Bắc Kinh phải có tiếng nói, sức áp đảo trên trường quốc tế thì những chi viện cho Việt Minh mới đáng công đáng của.

Trước Bá Linh, quân viện cho Việt Minh bằng người, ngựa, lừa. Sau Bá Linh là hàng đoàn xe Molotova từ Hà Khẩu (Vân Nam) sang Lào Cai rồi xuống đến tận Tuần Giáo chỉ cách Ðiện Biên Phủ 70 cây số. Anh hùng Tô Vĩnh Diện và xe đạp Peugeot chỉ “thi công” từ binh trạm Nà Nhạn, trên 20 cây số cuối cùng. (15 km nếu tính từ cửa rừng Nà Nham).

Trước Bá Linh, Mao và Hồ Chí Minh tin có thể thắng nhưng ý thức sẽ hao tổn binh lính. Vì Ðiện Biên mạnh gấp đôi Con Nhím Nà Sản mà tại Nà Sản, cả hai sư đoàn 308 của Vương Thừa Vũ và 312 của Lê Trọng Tấn đều “thất thu”. Không đột phá. Chịu tiêu hao. Tại Ðiện Biên, giá “mạc chược” phải cao hơn.

Dốc túi vào một canh bạc khiến Mao cân nhắc. Một chiến thắng phải có tầm ảnh hưởng chính trị, phải là tiếng sấm rền trong chính giới quốc tế có quyền định đoạt vận mệnh Ðông Dương thì mới thích đáng. Là lý do cho việc kéo pháo ra của Võ Nguyên Giáp. Có nghĩa, khi ấy, Mao chưa quyết đánh. Hồ Chí Minh tuân thủ.

Hội nghị Bá Linh khai mạc 25 tháng 1-1954 và kết thúc ngày 18 tháng 2-1954. Trên trang Báo Ðiện tử của Ðảng Cộng sản Việt Nam, trong bài Kéo Pháo Vào, Kéo Pháo Ra – Quyết Ðịnh Khó Khăn Nhất!, viết: “Thực hiện quyết định của Bộ Chỉ huy chiến dịch, ngay từ chập tối ngày 26-1-1954, lực lượng pháo binh của ta đã đồng loạt tiến hành rút khỏi trận địa. […] Với những nỗ lực và quyết tâm của bộ đội pháo binh, mờ sáng ngày 5 tháng 2-1954 (tức mùng 3 Tết âm lịch), khẩu pháo cuối cùng đã được kéo về vị trí tập kết, nhiệm vụ kéo pháo ra đã hoàn thành thắng lợi.”

Như thế, dân Việt hôm nay biết tiến trình kéo pháo ra bắt đầu ngày 26, một ngày sau hội nghị Bá Linh khai mạc. Nhưng rồi sau đó, sau “thắng lợi đàm phán Béc-lin” thì kéo pháo lên núi trở lại lúc nào? Quân đội Nhân dân không nhắc đến.

Xem thêm:   Chả cá Lý Trần Quân

Trên trang web ANTV – Truyền hình công an nhân dân, bài “Con đường kéo pháo huyền thoại trong chiến dịch Ðiện Biên” đăng ngày 7 tháng 5-2019 nhân kỷ niệm 65 năm Ðiện Biên Phủ, viết: “Cho đến hôm nay, cựu chiến binh Phạm Ðức Cư, một chiến sỹ của Trung đoàn 367 pháo cao xạ năm xưa vẫn còn nhớ rõ từng con dốc, con đèo mà ông và những đồng đội đã gồng sức, gồng mình đưa pháo qua. Sau 9 ngày đêm, lực lượng của ta đã đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa an toàn, bí mật. Tuy nhiên, ngay sau đó, khi Ðại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định đổi phương châm tác chiến từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc, lực lượng pháo binh lại nhận được lệnh kéo pháo trở lại nơi tập kết vất vả gian khổ gấp đôi song tất cả vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá…”

Có nghĩa, phải mất 9 đêm để kéo pháo lên núi trở lại. Là ít nhất. Tức là tối 26 tháng 1 kéo pháo ra, thì 5 tháng 2 xuống đến Nà Nhạn. Cứ cho là kết thúc Hội nghị Bá Linh ngày 18 tháng 2, ngay hôm sau ngày 19 có lệnh kéo pháo lên lại, thì sau 9 đêm mới vào đến vị trí tác xạ, là 28 tháng 2. Phải thêm mươi ngày nữa cho pháo thủ lấy lại sức, lập phương án mới, tái phối trí, tái tiếp tế và phối hợp bộ binh. Vì vậy khai trận 13 tháng 3.

Ðến hôm nay, huyền thoại “Kéo pháo ra” tiếp tục được ca tụng là thiên tài của Võ Nguyên Giáp. Trên thực tế hoàn toàn không cần thiết. Trong suốt trận đánh cho đến khi thất thủ ngày 7 tháng 5-1954, các tiền sát viên pháo binh Pháp (DLO) và Phi đoàn 21 Quan sát Pháo binh Bắc phần (21e Groupe Aérien d’Observation d’Artillerie) đã không xác định được vị trí pháo Việt Minh. Ðại bác 105 ly của sư đoàn nặng 351 đều đặt trong hang núi, ngụy trang và kéo ra khi bắn. Là nguyên nhân thảm bại phía Pháp. Do vậy Võ Nguyên Giáp không cần kéo pháo ra, chỉ việc đợi lệnh khai hỏa của Trường Chinh, chung cuộc không thay đổi. “Kéo pháo ra”, làm bộ đội thêm gian khổ và Tô Vĩnh Diện chết thảm.

Chính Hội nghị Bá Linh quyết định thời điểm tấn công mà không phải những băn khoăn chiến thuật của Vi Quốc Thanh hoặc Võ Nguyên Giáp.

TV (tháng 4-2023)

[1] Le général Giap, héros de l’indépendance vietnamienne, est mort (lemonde.fr)

[2] Thượng Tướng Phong Vân Lục (Bản dịch của Dương Danh Dy)