Đọc loạt bài du ký về quê cũ của ĐTTT trên báo Trẻ lòng cứ bần thần tự hỏi sao tác giả yêu đất nhà ngần ấy, phải yêu lắm nên cái nhìn nào cũng ấm áp, êm ả? Thế rồi Dế Mèn mày mò tìm kiếm tập nhật ký ố vàng ghi chép mấy chuyến đi năm xưa, xem cái máy ảnh của tâm trí nhìn ra những thứ gì và so với thủa ấy, khung cảnh đất trời nơi từng thăm viếng đã thay đổi đến đâu. Không gian cũng như thời gian. Lòng người thì tất nhiên khỏi kể lể vì cái nhìn trên dòng sông cũ đã mãi mãi mịt mù?!

Cầu Tràng Tiền      

3 kỳ – kỳ 1

Năm ấy, lần đầu tiên Dế Mèn gặp mặt Huế. Từ cửa sổ máy bay, những cánh đồng ngập nước và những mái rạ. In hệt như khúc hát năm xưa. Quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn…Trời rằng, Trời hành cơn lụt mỗi năm. Ông nhạc sĩ kể chuyện Tiếng Sông Hương tỉ tê thê thiết, tiếng ca tiếng hát chi mà rầu rĩ ủ ê!

Huế mưa phùn những ngày cận Tết, khí hậu đã mát mẻ khác xa Saigon nóng và bụi. Xuống máy bay, ra nơi lấy hành lý, phi trường Phú Bài những ngày cuối năm buồn se với những áo tơi nón lá. Con đường từ phi trường vào thành phố với những ổ gà ngập nước, hai bên đường hàng quán mái tranh vách ván. Về đến quán trọ đã ngả chiều, mới 3 giờ mà trời đã sẩm, quán trọ Hương Giang nằm bên dòng sông, nước đục lặng lờ. Thành phố giữ được vẻ thâm trầm lặng lẽ như những câu chuyện kể. Phe ta vào quầy bán quà lưu niệm mua cái poncho nhựa để dạo phố, thưởng thức thú dầm mưa xứ Huế. Dế Mèn đi tìm cảm xúc Nhã Ca trong những ngày ‘Mưa Trên Cây Sầu Đông’?

Chợ Đông Ba buổi chiều tàn vắng người, vậy mà phe ta cũng mua được hai cái bánh nậm gói lá chuối cầm tay còn nóng hổi. Bánh nậm Dế Mèn chỉ thấy ở Huế và ở mấy quán ăn ở Tiểu Saigon bên Mỹ. Hình như vỏ bánh khuấy bằng bột gạo, mềm nhưng không nhão, nhân bánh là thịt, tôm và hành củ băm nhuyễn. Phe ta dừng chân ở quán bên đường, G. muốn ăn phở. Trời ạ, ở Huế mà lại đòi phở! Ăn xong, trời sập tối, trên đường về quán trọ, phe ta đi bộ qua cầu Tràng Tiền. Dế Mèn kể với G. câu chuyện những ngày Mậu Thân, cầu Tràng Tiền và những vết thương của thành phố này. Dịch nghĩa ‘Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy’, bài hát kể lể ray rứt như bài kinh cầu. Dế Mèn nói với anh ấy rằng nơi ta đứng bây giờ, năm xưa nhuộm máu những người con xứ Huế. G. hỏi sao lại nhớ đến những chuyện thê lương như thế, thì ra Dế Mèn chỉ “biết” Huế qua những thảm cảnh, đúng là cái nhìn méo mó!

Cửu đỉnh triều Nguyễn. nguồn: kipedia

Hôm sau, phe ta vào thành nội thăm cung cấm triều Nguyễn. Từ cổng vào đi qua Hồ Tịnh Tâm nước cạn, vắng bóng hoa sen, chắc cuối mùa. Nhiều tòa nhà chỉ còn trơ nền đất, chiến tranh hủy hoại hoàn toàn những công trình kiến trúc. Điện Thái Hòa được xây dựng lại với sự tài trợ của người ngoại quốc, hình như một công ty Pháp. Thế Miếu dù mới được xây lại những năm sau này, mái đã dột, nước mưa đọng từng vũng trên nền gạch. Bài vị các vị vua chúa hầu hết viết bằng tiếng Tàu, Dế Mèn không đọc được nên chẳng biết thờ cúng vị nào, thấy tấm biển nhỏ “Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế” nên đoán là vua Gia Long, vị vua mở nghiệp của triều Nguyễn.

Ngửa mặt nhìn trời xanh, Dế Mèn thấy Kỳ Đài, kiến trúc cao nhất của thành nội, nơi treo những lá cờ. Ôi, những lá cờ, biểu tượng của một thời đại, của một quốc gia và bao nhiêu linh hồn, không biết đã siêu thoát hay vẫn còn quanh quẩn đâu đây?

Đằng sau điện Thái Hòa là điện Cần Chánh, ở đây còn giữ được hai cái vạc đồng đúc từ thế kỷ 17 và cửu đỉnh, 9 cái vạc khác đúc cùng thời đại (1835?). Cái đỉnh chính giữa lớn nhất và chạm trổ đẹp nhất nghe nói dành cho vua Gia Long; 9 cái vạc tượng trưng cho mỗi triều vua Nguyễn? Giả thuyết này Dế Mèn thấy có vẻ … xúi quẩy vì vào thủa ấy (1800) làm sao mà biết được hoàng triều chỉ lưu truyền có 9 đời vua? Vua nào mà chẳng muốn triều đại của mình kéo dài đến muôn năm? Có lẽ ‘cửu đỉnh’ là biểu tượng của vua chúa thì chính xác hơn? Vậy mà lúc qua Tầu thì không mấy nơi trong cung cấm kể cả Tử Cấm Thành bày 9 cái đỉnh, chỉ thấy 1 hoặc 3? Lại thắc mắc!

Chợ Đông Ba trước 1975

Mấy chữ “cửu” lẵng nhẵng theo phe ta cho đến bây giờ. Tra khảo sách vở thì thấy thêm vài chữ “cửu” quen thuộc khác, “cửu tuyền” (chín suối) là cõi chết, chín tầng âm phủ; “cửu trùng” (chín tầng trời) dính dáng tới vua chúa (cao như trời) … nhưng “cửu vạn” thì lại là biểu tượng của người làm thuê nặng nhọc, quân bài thứ chín của hàng “vạn” trong cỗ tổ tôm. Hình như chữ cửu nào cũng nặng ký, kể cả… cửu vạn?

Điện Cần Chánh nghe nói thủa xưa là nơi quan lại vào chầu vua, Dế Mèn đi tìm nào công hầu, nào khanh tướng… vua Hiệp Hòa, vua Kiến Phúc, hai ông quan thí chúa Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường… Trăm năm dâu bể, biển nào rồi cũng thành ruộng dâu? Tử Cấm Thành [Việt] chỉ còn là những bãi đất trồng rau. Thật là lạ lùng, khi thăm Tử Cấm Thành bên Tàu, Dế Mèn không đi tìm vua Càn Long, vua Khang Hy, Dế Mèn chỉ ngắm nghía những cái choé, những bức tranh… rồi trầm trồ chỉ trỏ. Khi đến Versailles, Dế Mèn cũng không nghĩ đến vua Louis XVI, Dế Mèn chỉ săm soi thẩm định cổ vật xem người ta văn minh giàu có đến đâu. Cũng lịch sử, cũng kiến thức sách vở, nhưng lòng ta sao dửng dưng? Hẳn là cảnh người, việc người? So với Huế, với Hà Nội, hình như bài học lịch sử thấm vào trong máu?

Xem thêm:   Lừa đảo đặt phòng khách sạn

Đi bộ quanh thành phố, trường Quốc Học nằm gần quán trọ trên đường Lê Lợi, trong sân trường, Dế Mèn đọc được tên tuổi của những lãnh tụ của miền Bắc xuất thân từ đây, ông Hồ, ông Giáp. Đi một quãng nữa là đến trường nữ trung học, ngày xưa là trường Đồng Khánh, bây giờ là trường Hai Bà Trưng. Những cô dâu Đồng Khánh năm xưa bây giờ phải đổi tên thay họ, chắc chỉ chừng mươi năm nữa, chẳng còn mấy ai nhớ đến tên trường Đồng Khánh vì Dế Mèn hỏi thăm, người chỉ đường ngẩn người một lúc mới nghĩ ra cái tên đã xóa khỏi bản đồ thành phố, những tên đường phút chốc hóa tang thương… Buổi trưa, học trò tan trường, có người đi bộ, có cô đi xe đạp. Bướm trắng ngợp một góc trời, cô nào cũng mảnh mai tha thướt áo dài nón lá. Dế Mèn xin phép chụp hình, mấy cô bé kéo nón che mặt, chỉ gật đầu cho chụp ảnh từ phía sau. Hôm nào rảnh rang, Dế Mèn scan lại tấm ảnh này, mời bạn cùng nhìn ngắm người đẹp xứ Huế. Năm ấy không thấy mấy xe gắn máy, thành phố vẫn tĩnh lặng dù trên đường phố đã vào lúc đông người qua lại.

trường Đồng Khánh – nguồn: vietnamesemuseum.org

Phe ta ghé quán ăn Lạc Thanh, bên cạnh là quán Lạc Thiện trên đường Đinh Tiên Hoàng, thử món bánh Khoái. Bánh Khoái đúc bằng bột gạo (không biết có pha thứ gì thêm ngoài bột nghệ?) nhỏ hơn nửa bàn tay, rán khô trong khuôn tròn, trên mặt rắc đậu xanh đã đãi vỏ, ăn với rau sống và nước chấm, gần gần như bánh xèo nhưng không giòn và mỏng như bánh xèo của Saigon và nước chấm là một loại tương. Anh chàng du khách người Úc ngồi chung bàn với phe ta gọi món này là “Smoke cake”, hẳn dịch theo chữ “bánh khói” (?) không hiểu nhờ ai mách nước!

Như những thành phố lâu đời khác, Huế cũng nằm bên dòng sông, hầu hết những công trình xây cất như lăng mộ, chùa … đều nằm dọc theo bờ sông Hương. Nước chảy chậm, những đám rác nổi lềnh bềnh, ruồi nhặng bu đen chung quanh, hẳn là xác thú vật giữa những loang dầu cặn trên mặt nước. Dòng sông ô nhiễm quá nên không thấy cái đẹp mô tả trong sách vở mà chỉ thấy cái cơ cực nghèo khổ.

Xem thêm:   tre mộc hay thảo?

Phe ta đi thăm lăng tẩm bằng thuyền. Bắt đầu từ Điện Hòn Chén, sắc phong của vua Đồng Khánh đã phai màu và cáu bụi nhưng vẫn còn treo trong đền, sắc phong không biết viết chữ Nôm hay chữ Hán, Dế Mèn không biết đọc nên cũng không hiểu vua ban cái gì. Trong đền có thờ bà Liễu Hạnh, nhật ký năm xưa có để một dấu hỏi đậm. Dế Mèn không biết lịch sử về bà chúa Liễu Hạnh, ghi vào sổ tay để hôm nào rảnh rỗi thì mày mò tìm hiểu thêm.

Chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên Mụ (Linh Mụ, một bà tiên hiện xuống báo cho dân trong vùng biết là sẽ có một vị chúa xuất hiện cứu dân giúp nước) xây năm 1601, thời chúa Nguyễn Hoàng quan trấn thủ đất Thuận Hóa, theo truyền thuyết tiên báo mộng. Những tòa nhà trong khuôn viên chùa đã được xây lại nhiều lần qua nhiều thế kỷ; chỉ có tháp Phước Duyên cao 21 thước, 8 góc 7 từng là kiến trúc cổ xây năm 1844, thời vua Thiệu Trị.

Dế Mèn chỉ nhìn bên ngoài và đi quanh tháp nên không biết bên trong tháp có cái gì, cửa cầu thang lên nóc tháp khóa chặt nên chẳng thể mò vô mà leo trèo nhìn ngắm. Bên cạnh là một tòa tháp hình 6 cạnh, treo quả chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông đúc từ thế kỷ 16, không thấy vết chạm trổ hoa văn, nặng cỡ 2 ngàn kí lô. Nghe nói chuông đúc bằng đồng (ròng?) nên tiếng chuông vang rất xa, phe ta đến thăm không phải giờ thỉnh chuông lúc chính ngọ nên không được nghe thanh âm.

Trong chùa, đầu tiên là tượng Phật bụng to má phính cười rộng miệng, “toét mang tai”, (Laughing Buddha). Dế Mèn thấy nhiều tượng khác, hình thể tương tự trong những đền chùa và cả hàng quán của người mình và người Tàu, thờ cúng để cầu tài lộc, sách vở dịch chung chung là “Laughing Buddha”. Dế Mèn không rõ là những hình tượng này thật sự nên gọi là “Phật” hay nên dùng chữ “Thần” cho chính xác? Trong chính điện là tượng Phật Thích Ca ngồi giữa, tượng A Di Đà và tượng Di Lặc hai bên, không thấy tượng Quán Thế Âm (cầm hoa sen) trong chùa Thiên Mụ. Trong sân chùa, có nhà để xe, chiếc xe màu xanh đưa hòa thượng Thích Quảng Đức đến nơi tự thiêu năm 1963 tại Saigon.

Hồ Tân Nguyệt – Nguồn wikimapia

Từ chùa Thiên Mụ, phe ta sang sông (Hương) để đến lăng Tự Đức hay Khiêm Lăng (tên do chính nhà vua đặt). Khiêm Lăng nằm trên đồi Vạn Niên, cả khu lăng mộ còn nguyên vẹn nằm giữa rừng cây cối um tùm, xa xa là đồi núi, cảnh sắc hài hòa u nhã, thoát tục. Ông vua có máu văn nghệ này chắc mượn cảnh chung quanh để sinh tình? Nhà thủy tạ nằm giữa hồ (Dụ Khiêm?) nghe nói là nơi vua uống trà thưởng trăng. Trà của “Ngài ngự” pha bằng những giọt sương đọng trên lá sen mọc trong hồ. Ấy là thức uống, còn bữa ăn, 50 đầu bếp làm 50 món ăn hàng ngày. Nhà vua có đến 104 bà phi, nàng hầu nhưng vẫn không có con nối dõi. Người ta bảo rằng oan hồn của ông anh Hồng Bảo bị bức tử theo báo oán? Tên gọi của những tòa nhà trong lăng mộ đều có chữ “Khiêm”, Cửa Vũ Khiêm, hồ Lưu Khiêm, chùa Hòa Khiêm… để chỉ sự khiêm cung của nhà vua. Lịch sử ghi lại rằng công trình xây cất quá tốn kém, công quỹ hao hụt nên nhà vua đặt thêm thuế và cưỡng ép dân phu đóng góp. Người dân phẫn uất kêu than, oán hờn tạo mầm mống của cuộc nổi loạn mà sử chép là “giặc Chày Vôi” năm 1866. Khi còn sống nghe nói nhà vua ở tại cung Hòa Khiêm, sau khi vua băng, cung điện này trở thành chùa Hòa Khiêm, nơi thờ tự nhà vua và bà chính thất Thiên Anh. Trong chùa còn lại cả một tấm gương đã ố không thấy ghi của bà phi nào, phải chăng là bà thị Bằng? (ới thị Bằng ơi… Đập cổ kính ra tìm thấy bóng; Xếp tàn y lại để dành hơi?) và cả hai cái ngai cũ, một lớn một nhỏ, nghe nói vua dùng cái ngai nhỏ vì nhà vua thấp bé, chỉ cao khoảng một thước rưỡi?

Xem thêm:   Cái cọc sắt

Đằng sau chùa Hòa Khiêm là chùa Lương Khiêm nơi thờ bà Từ Dũ, tên bà lưu danh hậu thế vì những công việc có tính cách xã hội, giáo dục như mở trường học, xây chùa. Trước năm 1975, ở Sài Gòn có nhà bảo sinh Từ Dũ. Nghe kể rằng vua Tự Đức sợ bà mẹ một phép và bà Từ Dũ là một người giản dị, thương dân nghèo. Vậy mà sao không thấy sách vở nào ghi là bà truyền dạy ông con bớt xa xỉ phí phạm?

Bước xuống điện Minh Khiêm nằm phía sau cung Hòa Khiêm, phe ta đến Sân Chầu nơi bày tượng bá quan văn võ, ngựa, voi đứng chầu vua, tượng tạc khoảng 2/3 mẫu người bình thường, chắc để nhà vua cảm thấy dễ chịu? Cách Sân Chầu và một cái hồ nhỏ là mộ vua Kiến Phúc (con nuôi vua Tự Đức) và bà Thiên Anh, vợ vua Tự Đức; còn xác vua chôn chỗ nào thì không thấy nói, sách chép lại rằng cả 200 dân phu sau khi chôn cất đều bị giết sạch để bảo mật?!

Chùa Bảo Quốc

Xuống thuyền xuôi dòng sông Hương, phe ta đến lăng Khải Định, từ bờ sông đi bộ khoảng 25 phút. Lăng Khải Định nằm trên đồi. Leo khoảng 30 bậc thang, cũng Sân Chầu, tượng voi, ngựa và quần thần đứng xếp hàng chầu vua. G. nói rằng nét mặt tượng quần thần có vẻ … Âu, mặt thon nhỏ mũi cao. Lăng Khải Định có nét kiến trúc nửa Á nửa Âu, cột kèo rồng phượng, mái cong nhưng vòm cửa hình cung. Trong cung Thiên Định, trần và tường vẽ (mural) hình ảnh 4 mùa, tượng vua Khải Định bằng đồng đen. Lăng Khải Định không có vẻ u trầm, tĩnh mặc như lăng Tự Đức và thiếu vẻ hài hòa với thiên nhiên sông nước của lăng Minh Mạng.

Lăng Minh Mạng nằm trên tả ngạn sông Hương, năm ấy tường vách vẫn còn vết đạn Mậu Thân. Sân Chầu vẫn còn vài tượng voi, qua sân ta đến cửa Hiển Đức để đến điện Sùng Ân nơi thờ vua Minh Mạng và hoàng phi. Chỉ còn những tòa nhà… đền đài trống trơn không thấy cổ vật nào. Từ đền ta qua hồ Trung Minh, cây cầu chính bằng đá, cầu Trung Đạo, ngày trước chỉ dành cho vua, thần dân dùng 3 cầu phụ (thần dân này hôm ấy cứ đi bừa cho lẹ!). Điện Minh Lâu nằm trên cao qua 3 tầng sân thượng, tượng trưng cho Trời, Đất và Nước. Từ Hồ Tân Nguyệt, như cái tên rất đẹp, hồ có hình lưỡi liềm của trăng non, Dế Mèn leo lên những bậc thang đá nơi có một bức tường hình tròn (tượng của mặt trời), người ta nói rằng đó là phần mộ vua Minh Mạng sâu 18 thước dưới chân tường (?) trên mặt đất, tùng và thông đan kín khu đất. Theo ý riêng, lăng Minh Mạng và Tự Đức là 2 lăng mộ đẹp nhất ở Huế.

Phe ta dùng một buổi chiều xem chùa trong thành phố, bắt đầu từ chùa Bảo Quốc, xây năm 1670 bởi sư Giác Phong, đến thời vua Minh Mạng, năm 1824, chùa được đặt tên là Bảo Quốc (cùng lúc, chùa Trấn Quốc ngoài Hà Nội bị đổi tên thành chùa Trấn Vũ, Trấn Bắc, nhưng chiếu vua thì mặc chiếu vua, người ta vẫn gọi ngôi chùa này là chùa Trấn Quốc). Sân chùa rợp bóng, yên tĩnh, hoa lan rất nhiều, những giò lan quý hiếm. Đi bộ khoảng nửa cây số, ta đến chùa Từ Đàm, dù tiền thân chùa Từ Đàm có từ thế kỷ thứ 15, nhưng ngôi chùa được xây lại hầu hết từ năm 1936, không có nét cổ kính tĩnh lặng của chùa Bảo Quốc. Một quãng ngắn nữa là đến chùa Linh Quang, mộ cụ Phan Bội Châu nằm trong khuôn viên chùa này.

Lẩn thẩn xem lại chuyện xưa lòng bồi hồi nỗi đất trời đổi thay. Cái máy chụp hình cũ mèm vẫn giữ nguyên hình ảnh đã úa. Huế hôm nay [của ĐTTT] là những tấm ảnh đỏ đèn rực rỡ. Rồi phe ta tự hỏi, không biết bây giờ mẹ già Đông Ba có còn áo tơi nón lá, con cháu Hai Bà Trưng có còn áo dài trắng đến trường nữa không? Vị nào Ở Huế cho Dế Mèn xem hình ảnh với?

(còn tiếp 2 kỳ)