Tre rất quen thuộc, gần gũi với người Việt ta. Nhắc đến tre là ta hình dung ra hình ảnh thôn làng có lũy tre bao quanh đánh dấu địa phận và bảo vệ người trong thôn xóm. Hình ảnh tre đằm thắm êm ả như thế, đẹp nhưng vẫn đa năng đa dụng.

Trong ngành thực vật, tre là giống cây đa dạng nhất trong các giống cây nở hoa sống lâu đời. Tre thuộc loài cỏ (thảo), họ Poaceae, to lớn nhất trong họ cỏ, tên khoa học là Bambusoideae. “Cỏ” tre khổng lồ cao đến 46 thước, thân dày cỡ 36 cm, đốt tre có thể dài đến 5 thước và nặng đến 450 ký lô! Độ dài của đốt tre chỉ thua mỗi đốt papyrus, có thể vì thế mà tre papyrus được dùng để ghi chép trước khi giấy ra đời chăng? Ngược lại, giống tre tí hon, bé nhỏ nhất chỉ dài cỡ 20 cm và dày khoảng 2 mm. Như các loài cỏ khác, giữa các đốt, thân tre rỗng ruột; hệ thống [nhựa] dinh dưỡng nằm tại mỗi đốt và nhánh / mạch nhựa rải khắp thân tre nuôi cây.

Nhờ hệ thống rhizome (thân rễ?), tre sinh trưởng mạnh mẽ, mọc lan chung quanh cây “gốc”; tre lan nhanh đến 91 cm trong 24 tiếng đồng hồ hay 40 mm /giờ. Giống tre Nhật khổng lồ Phyllostachys bambusoides có thể sinh trưởng ở tốc độ 120 cm/24 giờ! Quay đi quay lại là tre đã sinh sôi nảy nở. Với mức sinh trưởng đáng nể sợ ấy, tre đang được dùng để tái tạo rừng, làm hàng rào ngăn đất lở, thu hút thán khí CO2, làm sạch môi sinh… Tạm hiểu là tre vô cùng đa dụng.

Đa năng và đa dạng, tre chiếm vị thế quan trọng trong văn hóa và kinh tế ở châu Á. Hình ảnh tre xuất hiện trong tranh vẽ; trước khi có giấy, thân tre được dùng để ghi chép văn tự (sử xanh). Nhờ tính bền bỉ, cứng cáp, nhiều giống tre được dùng để xây cất nhà cửa, lều chõng; tỷ lệ độ bền/trọng lượng (strength-to-weight ratio) khá cao như các thân mộc khác, chịu được áp suất cỡ 60,000 psi (pound per square inch) hay 400 MPa) mà không bể nát.
Thân rỗng ruột nên tre uyển chuyển và dẻo dai, dễ uốn cong [ít khi gãy] nên báo chí dùng chữ  “ngoại giao cây tre” để mô tả cách giao tiếp “mềm nắn, rắn buông”, thay đổi [vị thế] theo tình huống cho vừa ý đối tác mà tiếp tục trao đổi buôn bán thu lời.
Dáng thẳng đứng nhưng không hiểu tại sao tre không được xem là hình ảnh của “người quân tử” như trúc, giống cây bà con rất gần gũi?

Cả ngàn giống tre được gom vào hai nhóm chính: tre [mọc] bụi và tre [mọc] lan. Tre bụi có hệ thống rễ từng chùm san sát nhau; tre lan có hệ thống rễ lan xa nên dễ dàng chiếm đất, tranh giành dưỡng chất và hủy hoại các chủng cây khác nên bị gom vào loài cây “xâm lăng” (invasive), đảo lộn môi sinh. Không lạ là nhiều thành phố chỉ cho phép trồng tre làm cảnh trong chậu xi măng.
Ít sinh sản, tre chỉ đơm hoa, ra hạt một lần trong đời sau 12-120 năm tăng trưởng.
Khác với các loài thảo mộc khác, tre “tái sinh” rất nhanh, mỗi lần bị cắt bỏ, đốn thân [phần] trên mặt đất, tre lại lớn mạnh như cũ. Trung bình, tre non “trưởng thành” trong khoảng 4 – 8 năm. Khi lớn hết mức, tre tiếp tục “tái sinh” trong suốt “đời”, trên 40 năm, hoặc cho đến khi hệ thống rễ bị đào xới vứt bỏ.

Xem thêm:   Thu nhặt thói quen hay chứng bệnh tâm thần?

Như những loài cây cỏ khác, tre cũng góp phần “tẩy sạch” môi sinh qua cách thu hút thán khí. Theo Project Drawdown, mỗi mẫu rừng tre thu hút đến 2.03 mét khối thán khí hằng năm. Khả năng này khiến tre trở thành tài nguyên đáng kể của thế giới.

Tự bao đời, ngoài các công trình xây cất, con người đã dùng tre vào nhiều việc như chế tạo đồ dùng, từ sàn nhà, giường tủ đến hương nhang; kỹ nghệ lớn [chế tạo gỗ sàn nhà…] đến tiểu công nghệ / mỹ nghệ…  Những chiếc rổ, rá, giỏ, gùi…; vật dụng nhà bếp như đũa cả đũa xào, đũa ăn, muỗng, nĩa… Món gì cũng dính dáng đến tre!
Chưa hết, trong ngành chế biến thuốc Bắc, người Tàu dùng tre làm vị thuốc. Những hạt silica từ thân tre được nghiền nát có tên Tabasheer, một trong những vị thuốc chữa các chứng “nhiệt”, gây đờm rãi (dãi) hoặc giảm lưu thông huyết mạch.

Tre là thực phẩm: Những cây tre non, mụt măng mới nhú là thực phẩm nuôi con người và thú rừng. Việt Nam ta có nhiều món ăn xuất từ măng tre, măng khô hầm chân giò dịp Tết nhất, lễ lạt. Măng non xào nấu đủ kiểu. Món ăn Tàu xem ra phong phú hơn, họ có cả một “bí kíp” nấu ăn dùng tre như nguyên liệu chính, xiong mao yan, hay “panda meal”, kiểu măng chục món tùy theo mùa [thu góp măng].  Theo những cái lưỡi tinh tế, măng [đào trong] mùa xuân có vị ngọt, thơm mùi cỏ tươi và mềm mại. Măng mùa đông khô và hơi đắng.

Tre và sản phẩm từ tre

Dù tre tăng trưởng quanh năm nhưng khi dùng tre non như thực phẩm, nông dân thường đào măng vào hai mùa chính, xuân và đông. Măng tươi bán không hết thì chần sơ rồi phơi khô mà bán tiếp.
Đào măng cũng có tay nghề. Mùa xuân, nông dân tìm kiếm những mụt măng non trên mặt đất sát cạnh các bụi tre. Bụi tre nào dầy lá là có nhiều măng và đó là các mụt măng non rất ngọt. Mầm măng nẩy từ thân rễ [đã] trưởng thành, và từng chùm san sát nhau. Khi tìm thấy một mụt măng là sẽ có những mụt măng khác chung quanh. Nông dân đào xới lấy măng nhưng tránh cắt đứt hệ thống rễ.
Măng [mùa] xuân trồi lên mặt đất dễ nhận diện, cần thu góp nhanh chóng kẻo măng sẽ “già” chỉ trong vài ngày trong khi măng [mùa] đông còn nằm dưới mặt đất và nông dân phải đào bới. Măng [mùa] đông khi trồi khỏi mặt đất thường bị đông cứng và hư hỏng. Vào mùa hè, không đào kịp thì măng đặc cứng [không ăn được] nên nông dân để mụt măng lớn thành tre. Măng xuân mềm, dễ cắt rời từ gốc so với măng đông người ta phải đào bới và xới đất[khô cứng] trước khi có thể cắt mụt măng lìa rễ.

Xem thêm:   Chùa Hương năm ấy

Tre cũng có nấm. Nấm tre rất đặc biệt nảy mầm giữa bụi tre và chỉ vài ba loại nấm tre là ăn được. Nông dân trồng tre đã thử nhiều năm để gây giống nấm tre nhưng chưa thành công vì loại nấm này khá kén chọn, chỉ nảy nở trong môi sinh thích hợp, có vẻ như “lúc nào thích thì nảy mầm”!?
Loại nấm tre quý hiếm và đắt giá nhất là “zhu sheng”, chỉ hiện hữu khoảng nửa ngày, bắt đầu như một trái trứng trồi lên mặt đất. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ trong buổi sáng mờ sương, nấm chuyển mình và người săn nấm phải thu góp ngay trước khi cây nấm héo dần. Sau khi gặt hái, nấm cần được phơi khô rất nhanh kẻo tàn rữa. Nấm tre trong suốt, có màu ngà hoặc nâu đậm và nhiều thể chất, loại “xốp” như tổ ong, loại mềm oặt và hút nước…
Tỉnh Sichuan (Tế Xuyên?) bên Hoa Lục được xem là thủ phủ của tre; các đầu bếp trong vùng đã chế biến khá nhiều món măng, măng xuân và đông cũng như các loại nấm tre được dùng như nguyên liệu.

Người Việt Ta ăn măng tươi hoặc măng khô như rau cỏ, nấu chung với thịt cá và các nguyên liệu khác. Măng khô hầm chân giò là món ăn ngày Tết, miếng măng mềm nhưng dai thu hết vị ngọt của [xương] giò heo. Dế Mèn được ăn món này nhiều lần nhưng chưa bao giờ xông pha vào bếp nấu nướng vì nhiêu khê quá. Luộc măng khô vài nước cho thật trong rồi mới hầm và hầm cả mấy tiếng, miếng măng mới chịu mềm, ui cha là công phu!?
Người miền núi nấu cơm lam (?) nếp trộn chung với mè, chút muối nhồi vào ống tre rồi quấn rơm mà nướng. Cơm hạt dẻo có mùi tre tươi, lẩn nhẩn hạt mè… phe ta được thử một lần hồi nẳm lúc đi loanh quanh ở Lào Cai. Bây giờ vẫn còn nhớ.

Xem thêm:   Thu nhặt thói quen hay chứng bệnh tâm thần?

Ngày nay thì tre đã phổ thông lắm rồi, công năng của tre đang được tận dụng và ngành trồng tre đang trở thành một kỹ nghệ lớn, cung cấp nguyên liệu cho các kỹ nghệ khác.
Quả là cây tre muôn mặt!

TLL