Sau biến cố Mậu Thân, đợt 2 vào tháng 5.1968, nhà tôi cháy rụi. Khi lên Đà Lạt học, tôi phải xin tá túc ở nhà cô tôi ở cuối đường Phan Đình Phùng. Mỗi Chủ Nhật, tôi và người em họ ra phố đều nhìn thấy những hình ảnh oai hùng và đẹp mắt: sinh viên sĩ quan (SVSQ) trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị đi phố cuối tuần!

Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. dansaigon 

Thỉnh thoảng tôi cũng gặp người cháu gọi bằng cậu đang học khóa 25 trường Võ Bị ghé thăm. Cháu lớn tuổi hơn tôi, con đời trước của chồng người chị cô cậu nhưng xưng hô với mọi người trong gia đình tôi như các cháu con đời sau của anh chị. Khi lên học Ðà Lạt ghé thăm cô dượng tôi, cháu cũng xưng hô với cô dượng bằng ông bà, các em tôi bằng cậu dì, như ruột thịt.

Nhân coi lại phim “The Longest Day”, đến đoạn người con trai tướng Eisenhower xin ra chiến trường sau khi trị thương ổn định, chỉ huy của anh ta không bằng lòng vì chưa thể chiến đấu như người bình thường được. Vợ tôi bảo: “Ðâu phải con ông Tướng muốn gì cũng được! (dầu là muốn đi chiến đấu) còn ở Việt Nam thì…??”
Chuyện lan man với vợ làm tôi liên tưởng đến người cháu dễ thương đã quá cố này, đến những kỷ niệm với cháu hơn 45 năm trước ở Ðà Lạt. Sáng nay, lại đọc trên BM blog bài viết “Chuyện ở Học viện Quân sự West Point”. Rất thú vị, và điều này thúc đẩy tôi viết lại vài hàng những kỷ niệm với cháu và những điều tôi biết về trường.

Trường Võ bị Quốc Gia Việt Nam nhận sinh viên đã có bằng tú tài II, trúng tuyển sau khi thi đậu vào trường, có thời kỳ phải vượt qua cả kỳ thi vấn đáp (Oral). Khóa sinh sẽ tập trung ở quân trường Quang Trung Sài Gòn chờ máy bay để lên Ðà Lạt học. Trường cũng tiếp nhận cả SVSQ Quân Y vào học 8 tuần “sơ khởi” rồi mới về trường Quân Y. Họ chịu sự chi phối của mọi nề nếp trong trường như SVSQ chính thức vì trường Sĩ quan Quân Y cũng theo chế độ hiện dịch.
“Sau khi ở Quang Trung, bọn cháu (khóa 25) được đi máy bay về trường ở Ðà Lạt để học chính thức. Khi xe vào đến cổng trường, một lễ đón tiếp tân khóa sinh diễn ra long trọng, có cả quân nhạc oai hùng, ai cũng rơm rớm nước mắt, cứ như tổ quốc đã giao vận mạng đất nước vào tay mình nhưng khi vượt qua bảng ghi khẩu hiệu “Tự thắng để chỉ huy” trước cổng, lệnh từ chỉ huy ban xuống: “Vất ba lô, tất cả chạy quanh vũ đình trường ba vòng!”. Ba vòng vũ đình trường là 3 cây số! Và từ đó, bắt đầu thời kỳ… huấn nhục”diễn ra trong 56 ngày với những thử thách cực kỳ cam go mà nếu không dốc lòng chắc khó mà tồn tại”. Cháu kể cho tôi nghe những ngày mới về trường như thế. Có lần, cháu ghé thăm, khi tôi lấy xe đưa về, cháu giành chạy xe, tôi bảo, đường lạ để mình chạy, cháu bảo SVSQ Võ Bị không để người khác chở trừ phi là những người cùng trường. SVSQ cũng không được đi xe lam, không được ngồi quán cóc, không ăn uống ở lề đường, ở các quán xá bình dân mà phải vào nhà hàng, tiệm ăn sang trọng. Ðó là tinh thần “Tự thắng để chỉ huy”, tôi nghe mà ngạc nhiên pha lẫn thích thú.

Xem thêm:   Một câu chuyện nhỏ

Mỗi cuối tuần, phố phường Ðà Lạt bỗng đẹp thêm và sang trọng nhất là khu Hòa Bình nhờ có các SVSQ vừa VBQG vừa CTCT đi phép. Phố phường Nha Trang trong giai đoạn này cũng có SVSQ Hải Quân đi phép cuối tuần về nhưng rải rác nhiều nơi vì trường ở tận Cầu Ðá, xa phố đến 8km và không có những khu vực tập trung đông đúc như khu Hòa Bình của Ðà Lạt.

Nghe kể mỗi sinh viên đều có bốn bộ complet là lễ phục gồm 2 bộ tiểu lễ và 2 bộ đại lễ, hai cho mùa Ðông và hai cho mùa Hè. Chỉ đến khi SV xong thời kỳ huấn nhục, được “gắn alpha” thì mới được đi phép ra phố với lễ phục, mới “được tôn trọng” như con người, mới được cư xử theo hiến pháp và luật pháp. Ðang trong thời kỳ huấn nhục thì cứ gọi là “bị đày đọa đến cùng” và bị ít nhiều là tùy …hên/xui!.
Chuyện bị sĩ quan chỉ huy hay huấn luyện viên phạt là bình thường nhưng việc bị khóa đàn anh phạt mới là cắc cớ, mới là kinh hoàng, là ác mộng. Trong trường, khóa đàn anh phạt đàn em là chuyện thường, đó là những SV năm cuối có nhiệm vụ huấn luyện năm nhất dưới sự giám sát của sĩ quan huấn luyện. Khi đã được gắn alpha đi phố, nếu vi phạm, lớp đàn anh sẽ ghi tên hoặc gọi  xe tuần tiễu của trường đến giải quyết. Có lẽ trường SQCTCT Ðà Lạt cũng học tập điều này.

Sau Mậu Thân, do tình hình an ninh , các trường khuyến cáo SVSQ không nên đi quá Ngã Ba Chùa trên đường Phan Ðình Phùng và Hai Bà Trưng cũng thế.

Có lần tôi theo cháu vào thăm trường, cậu cháu vào câu lạc bộ uống café, khi vào nơi này phải đi ngang nhà ăn, ở đó treo tại các vị trí trang trọng ảnh của các khóa sinh từ khóa I  là những vị tướng nổi tiếng và đang tại nhiệm của quân lực VNCH. Cũng ở nhà ăn, cháu kể khi ngồi vào bàn ăn, từ động tác bưng chén cơm, đưa vào miệng đến đặt lại xuống bàn đều phải theo hình thể hình học và theo các phương vuông góc với nhau. Không hiểu người ta thực hiện việc này nhằm mục đích gì nhưng nghe kể thật là thú vị và điều này giúp người nghe hình dung được hình ảnh người sĩ quan quân lực VNCH mang lon thiếu úy khi ra trường!.

Từ ngoài cổng đi vào, ghi nhận đầu tiên và cũng là sự thán phục của tôi là mọi nơi đều sạch sẽ, ngăn nắp, nhà cửa, phòng học, đường đi lối lại được bài trí ngay ngắn, sạch đẹp hơn cả công viên và chắc chắn đây là do bàn tay chăm sóc của khóa sinh (chỉ khi so sánh với hai nơi tôi đã từng biết: Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn ở Ninh Hòa và Trung tâm Huấn luyện Ðống Ða ở Phú Bài – Huế).
Cháu cũng được nghe các niên trưởng kể lại rằng đêm trước ngày làm lễ ra trường cho các khóa tốt nghiệp, các SVSQ trực ở Ðài Tử Sĩ giữa khuya thường nghe tiếng chào nhau, tiếng chân mang giày đi trận về đi rầm rập nhưng không thấy người, hỏi đơn vị trước đây của nhau, vong hồn các sĩ quan đã tử trận nên ai cũng sợ phải trực ở đó! Không biết thực hư thế nào?

Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Flickr

Chuyện tôi được nghe kể nhiều, không chỉ riêng từ cháu, là nội dung đào tạo và áp lực khi học trong trường. Từ năm 1966, trường VBQGVN thực hiện học trình 4 năm, bằng tốt nghiệp mang tên bằng Cử nhân Khoa học Ứng dụng, được công nhận có giá trị như bằng cử nhân dân sự nhưng tôi biết, khi ra trường họ là một sĩ quan đa năng đa hiệu, biết lái xe, biết chèo thuyền, biết sửa chữa nhỏ khi xe hay ca nô hỏng hóc, biết nhảy đầm, biết mưu sinh thoát hiểm, biết tổ chức một chương trình văn nghệ hay một đêm vũ hội hóa trang… Ðiều này làm tôi liên tưởng đến trường Võ bị West Point ở Mỹ và khi tìm hiểu thì đúng là trường học tập mô hình đào tạo của West Point. Mời bạn đọc những trích đoạn này trên BM blog:
“Ở Mỹ nghe ai nói tao từng học ở West Point, người ta nhìn mình từ trên xuống dưới, như một thực thể lạ, một con người hoàn hảo. Không xếp hạng được vì nó không có thể có tiêu chuẩn để xếp”

Xem thêm:   Bố già Marlon Brando 100 năm một huyền thoại bất tử

“Chương trình học từ thiên văn vũ trụ đến cách bắt tay, cách uống rượu vẫn tỉnh táo, cách gấp mùng mền chiếu gối đến tranh luận các tác phẩm của Victor Hugo. Trên thông thiên văn, dưới tường địa chất, giữa thấu nhân tâm”.

“Ở West Point, có một slogan là cứ đưa cho tôi một người không phải tâm thần, tôi đều có thể đào tạo thành một công dân ưu tú”.
Trích dẫn trên làm tôi liên tưởng tới slogan chữ to đặt ngay trước trường Ðào tạo Người nhái ở bán đảo Cam Ranh trước 1975 đại để là: “Việc gì người thường không làm được, người nhái phải làm được!”.

Tôi không ở gần cháu được lâu vì không còn học ở Ðà Lạt năm sau nhưng sau này nghe gia đình kể lại rằng, trước ngày ra trường, người anh em cột chèo với ba cháu là một dân biểu có thế lực ở Sài Gòn có nhã ý đề nghị vận động cháu về làm việc ở Nha Quân Pháp Bộ Quốc Phòng để khỏi đi chiến đấu nhưng cháu lễ phép cám ơn và từ chối với lý do là không thể phụ lòng tin và mong mỏi của trường. Cả nhà không đồng tình nhưng nể cháu và không tiếc lời ca ngợi nhà trường.

Ra trường, cháu về đơn vị tác chiến của SÐ2 BB (đóng ở Quảng Ngãi mà mùa Hè đỏ lửa 1972 cũng đã xảy ra những trận kịch chiến với Bắc quân), đó là điều mà cháu lấy làm tiếc vì khi ghi danh vào các binh chủng lừng danh như Thủy quân lục chiến, Biệt động quân, Nhảy dù… đã có những đồng môn đỗ cao hơn chọn trước và hết chỗ! Khi cuộc chiến kết thúc, cháu đã mang cấp bậc Ðại úy. Ðẹp!

Xem thêm:   Thân thương hai tiếng "Mình ơi"

Sau 1975, khi cháu đi tù về, thỉnh thoảng tôi có gặp đôi lần, vẫn như xưa với nụ cười hiền và mắt sáng khi cười, vẫn lễ phép, nhã nhặn, sau đó lại nghe tin cháu về Sài Gòn làm việc cho một hợp tác xã của bạn cùng khóa, hợp tác xã này ưu tiên và ưu đãi cho tất cả đồng đội ở tù về. Sau này, rất vô tình, tôi lại gặp một cựu sinh viên khóa này ở thị trấn tôi làm việc, vậy là anh ta gọi tôi bằng “cậu” và kể lại câu chuyện trên cùng những chia sẻ về sau khi cháu bệnh ở Sài Gòn rồi qua đời và khóa 25 đã giúp đỡ vợ con cháu như thế nào.

Vẫn biết rằng, “La comparaison n’est pas raison” (mọi sự so sánh đều khập khiễng), đem so sánh trường West Point thành lập từ 1802 với trường VBQGVN ra đời ở Ðập Ðá, Huế năm 1950 (nhưng chỉ với học trình 9 tháng rồi tăng dần lên 4 năm từ năm 1966) là không ổn nhưng tôi nghĩ, sinh viên VBQGVN cũng không khác gì West Point như mô tả dưới đây:
“Nhìn các học viên WP đánh đàn, nhảy, khiêu vũ, võ thuật, hát, ảo thuật, thám hiểm, vẽ… hay thậm chí tỉ mỉ ngồi cắt tỉa giấy để rèn luyện đôi tay khéo léo, bạn sẽ thấy mình sẽ phải cố gắng thật nhiều. Một ngày chỉ có 24h, là công bằng cho tất cả mọi người. Chúng ta phải ngủ 6-8 tiếng, ai cũng chỉ còn 16h trong ngày. Nên phải chia ra, làm gì, học gì trong quỹ thời gian ít ỏi đó. Một WPer nếu sáng sớm không nộp được bảng mô tả công việc trong ngày (daily to-do list) cho bạn trưởng nhóm, thì coi như nắm chắc  phần  cuốn gói về quê”.

Với tuổi đời chỉ ¼ thế kỷ, chương trình và nội dung đào tạo lúc đầu theo mô hình Pháp rồi Mỹ nhưng trường đã góp phần không nhỏ cho sự lớn mạnh và làm rạng danh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa với những chiến công lẫy lừng của những sĩ quan đã từ đó ra đi, đã làm những cố vấn Mỹ và sĩ quan đồng minh chiến đấu chung chiến hào không tiếc lời ca ngợi và người của “bên thắng cuộc”… sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn còn nể phục kể cả khi họ chỉ là một tù nhân đang bị đày đọa trong các trại tù. Trường VBQG VN không hổ danh là một West Point của VN nói riêng và Ðông Nam Á nói chung!

NHQ