Ngày ông Táo về trời năm Mậu Tý, Thế Kỷ 20…

Bảo Huân

2 kỳ – kỳ 2

Ðây! Anh coi xem thật hay giả?

Phụ giơ tay giật mạnh, tờ giấy 20 đồng đẹp như tranh vẽ đã nằm trong tay.

Sau đó y đặt chai nước vối xuống đất, dùng hai tay căng đồng bạc ra, rồi đưa ngang mắt, soi qua ánh mặt trời.

Kiểm tra tờ bạc xong, Phụ tắc lưỡi, gật gù,

– Ðúng rồi! Không phải là bạc giả. Nhưng để anh cất cho. Lúc nào em cần mua gì thì đi với anh, anh trả tiền người ta mới tin, em là trẻ con, người ta sẽ lường gạt mất.

Thằng bé lắc đầu,

– Tiền mẹ cho hằng ngày em còn tiêu chưa hết. Em cần gì phải dùng tới tờ hai chục này. Ðây là tiền chú Tường cho em thì em phải cất. Em không đưa cho anh giữ đâu.

Anh Phụ bỏ tờ bạc vào túi quần rồi ra lệnh,

– Tao là anh, mày là em, anh nói thì em phải nghe! Mày mà cãi lời tao, tao đánh đòn đó!

Hăm he xong anh Phụ xách cặp đứng lên.

Thằng bé cũng đứng lên theo thằng anh.

Bất ngờ, Phụ giựt chai nước trên tay thằng em, tu một hơi cạn đáy rồi thẳng tay quật cái vỏ chai xuống thềm xi măng.

“Choảng!” cái chai vỡ tan! Mảnh thuỷ tinh văng tung tóe.

Thắng bé sợ quá, hai tay nó nắm chặt cái song sắt của cửa rạp hát.

Tuy vậy, nó vẫn nói cứng,

– Em nói rồi! Anh phải trả lại hai chục cho em! Nếu anh giữ nó, mẹ hỏi, em làm sao mà trả lời mẹ?

“Bốp!” một cái tát toé lửa xáng ngay trên mặt làm cho thằng bé tối tăm mặt mũi, chúi đầu xuống nền xi măng. Anh nó hét lên,

– Thì mày cứ nói mày tiêu hết rồi! Chú Tường cho phép mày muốn tiêu gì, mua gì cũng được mà!

Nó đưa tay quệt máu từ vết rách trên khóe miệng, rồi cố gắng ngồi dậy, nhưng nhìn thấy cặp mắt đỏ ngầu của ông anh cùng với hai cái nắm đấm to như hai quả cân của bà hàng thịt thì nó sợ quá, run lên như cầy sấy.

Chợt trong óc nó loé lên một ý nghĩ, nó giả đò thật thà, lắp bắp,

– Vậy thì… nếu mẹ hỏi, em nói… em còn bé quá, giữ nhiều tiền trong túi thì … nguy hiểm nên em… nhờ anh Phụ giữ hộ. Như thế… có được không?

Thấy dáng điệu khiếp sợ cùng với câu nói có vẻ an phận, buông xuôi của thằng em, Phụ liền dịu cơn thịnh nộ. Lập tức, miệng anh đã trở lại ngọt ngào ngay,

– Ðúng rồi! Làm anh thì phải thương yêu em, bảo vệ em. Làm em thì phải nghe lời anh. Vừa rồi em làm anh giận lắm đó! Bây giờ thì anh hết giận rồi. Chuyện cũ mình xí xóa! Chúng mình đi học thôi!  

Nói xong, anh Phụ ân cần nắm cánh tay nó, dắt nó xuống tam cấp. Hai anh em sóng vai bên nhau đi về hướng trường.

Chiều hôm đó, trước lúc chia tay ở cạnh rạp Kim Phụng, anh Phụ còn nhắc nhở nó,

– Tốt nhất là ở nhà, em đừng đả động tới chuyện đồng bạc hai chục, chắc mấy bữa sau mẹ em cũng quên đi thôi.

Nó gật đầu, biểu đồng tình,

– Mẹ bận lắm, chắc không có thì giờ mà hỏi gì đâu.

Tuy miệng nó nói thế, nhưng suốt dọc đường về, nó cứ thấy ngực nặng như đeo chì. Nó tức đến nỗi thở không được.

Nó chợt nhớ tới lời chú Tường nói rằng bố nó là “Ðại ca” của chú. Nó đã chứng kiến chú Tường dõng dạc nói với bốn người đàn em của bố,

– Người ở lại, nếu ai còn nhớ tới đại ca thì hãy bỏ công chăm sóc giọt máu còn lại của đại ca.

Về tới Ngã Sáu, nó ghé vào căn phố đầu đường dẫn vào Lao Xá, dự định sẽ kể chuyện nó bị thằng anh kết nghĩa ức hiếp cho mấy ông đàn em của bố nó nghe. Chắc chắn mấy ông này sẽ ra tay nghĩa hiệp diệt bạo, trừ gian, mà giúp đỡ nó đòi lại tờ giấy bạc hai chục đồng.

Nó chỉ gặp được một người ở nhà chiều hôm đó là ông Trần Phương Quế.

Ở Nam Ðịnh thì gia đình bà chị Cả của bà Sen là hàng xóm của gia đình ông Quế; ông Quế nhận bà Cả là chị nuôi.

Xem thêm:   Xe đạp bike dần… bye bye!

Vì bà Sen lớn hơn ông Quế bảy tuổi, nên ông Quế cũng gọi bà Sen là chị.

Do đó, thằng con của bà Sen mới gọi ông Trần Phương Quế là cậu Quế.

Nhưng từ hôm biết tin bố nó bị người ta giết thì ông Quế bắt nó đổi cách xưng hô, gọi ông là chú, cũng giống như chú Yên, chú Lâm, chú Sử, chú Tường.

Nó chưa mở miệng thì chú Quế đã vồn vã,

-Cháu mới đi học về ghé thăm chú phải không? Con nhà tông, không giống lông cũng phải giống cánh. Cháu là con của đại ca, sau này lớn lên chắc chắn cháu sẽ trở thành một nhân tài.

Nghe ông Quế nói nó là con của một đại ca, sau này nó sẽ trở thành một nhân tài thì nó liền bỏ ngay ý nghĩ nhờ vả người khác giải quyết chuyện riêng.

Nó sẽ không nhờ vả ai. Nó thề rằng sẽ tự mình đòi lại tờ giấy hai chục mà tên côn đồ đã trắng trợn cướp trên tay nó. Thế là nó vui vẻ trả lời ông Quế,

– Hôm nay cháu được về sớm. Cháu ghé thăm sức khỏe của chú. Thôi! Cháu xin phép chú! Cháu về ăn cơm.

Ra khỏi nhà chú Quế, thằng bé chạy thẳng một mạch xuống chợ Tây.

Khu chợ rau, chợ cá đã dọn hàng, đóng nắp sạp. Nhưng dãy nhà bán tạp hóa còn mở tới 8 giờ tối.

Nó vào hiệu tạp hóa mua một cái kéo bằng Inox của thợ hớt tóc, đáng giá hai đồng rồi hí hửng ra về.

Thường ngày thì về tới nhà nó thay cái quần soọc xanh ra, mặc cái quần đùi vào cho gọn. Tối nay nó vẫn để nguyên cái quần soọc trên người. Cái quần này có túi.

Cái kéo nằm gọn trong túi quần, nó bước ra sân sau.

Trong suốt ba giờ đồng hồ, nó tập thật nhuần nhuyễn ba động tác:

1) Bước chân trái lên một bước cho sát địch thủ.

2) Rút cái kéo ra khỏi túi quần.

3) Vung tay đâm hết sức mạnh vào đùi và mông kẻ thù.

Rồi rút kéo ra, đâm nhát thứ hai, nhát thứ ba, nhát thứ tư … cho tới khi thằng ăn cướp móc túi trả lại tờ giấy bạc hai chục đồng Ðông Dương thì nó mới dừng tay.

Sáng hôm sau, 27 tháng Chạp Âm Lịch, thay vì đem theo hai chai nước vối, nó pha một chai nước chanh đường.

Tới rạp Kim Phụng, nó vừa cười hì hì vừa nịnh bợ người anh kết nghĩa.

– Em chưa kịp mua thêm một cái chai để đựng nước vối. Hôm nay em chỉ đem theo một chai nước chanh cho anh thôi. Em không khát.

Anh Phụ đỡ chai nước chanh giọng cảm động,

– Thằng em của tôi tốt bụng quá!

Vì nó đã dùng kìm để siết cái nắp chai, nên anh Phụ phải vận sức cả hai tay để mở chai. Nhân cơ hội này nó đã thực hành thật nhanh ba động tác:

1) Bước chân trái lên một bước cho sát ông anh kết nghĩa.

2) Rút cái kéo ra khỏi túi quần.

3) Vung tay đâm hết sức mạnh vào đùi và mông thằng ăn cướp.

Rồi rút kéo ra, đâm nhát thứ hai, nhát thứ ba, nhát thứ tư … miệng nó liên tiếp la:

“Trả lại tờ bạc hai chục cho tao! Trả lại tờ bạc hai chục cho tao!”

Cái kéo hớt tóc bằng Inox vừa sắc lại vừa cứng. Cú đâm nào cũng lút tới xương. Cái chai nước chanh rớt xuống lăn long lóc theo bực tam cấp nhưng không vỡ.

Thằng anh kết nghĩa lớn tiếng kêu,

– Bà con ơi! Cứu tôi! Cứu tôi!

Thằng em kết nghĩa bình tĩnh, lớn tiếng đáp lại,

– Nó là thằng ăn cướp! Nó cướp tiền của tôi! Bà con gọi Cảnh Sát bắt nó! Bắt nó!

Chợt tên Phụ quỵ xuống rồi thều thào,

– Anh sẽ trả lại tiền cho em! Ðừng đâm nữa! Ðừng đâm nữa!

Nó đứng chưa tới ngực tên Phụ nên chỉ có thể đâm vào đùi, vào hông của Phụ.

Giờ này thấy Phụ quỵ xuống, nó bèn ghim mũi kéo ngay yết hầu của Phụ.

Chỉ cần một cái hất tay, một linh hồn sẽ bay lên trời.

Phụ run rẩy móc túi lấy cái phong bì có chứa tờ giấy bạc đưa lên trước mặt,

– Tiền của Long đây! Anh lạy em! Tha cho anh!

Tay của Phụ đầy máu, cái bì thư cũng đẫm máu.

Thằng bé cúi xuống cầm cái bì thư rồi nhìn một vòng xung quanh phân bua với đám người đang đứng vây,

Xem thêm:   Võ Thị Sáu

– Ðây là tiền của tôi! Nó là thằng ăn cướp! Bà con đã thấy chưa?

Nó tính mở cái bì thư lấy tiền ra thì nghe ai đó trong đám đông la to,

– Thằng ăn cướp bỏ chạy! Bắt nó! Bắt nó bà con ơi!

Phải nói rằng tên Phụ này rất khoẻ, bị đâm cả chục nhát kéo vào đùi, máu tuôn ra ào ào mà vừa nhỏm dậy nó đã biến mất sau hàng hiên dãy phố bên kia.

Thằng bé vội phóng theo tên tội phạm, nhưng qua đường nó cũng quẹo trái, len lỏi vào mấy con hẻm quen dẫn về phố Jean De Bouchet rồi thót vào nhà.

Không có ai ở nhà, nó chạy tới bên giếng, múc nước tắm cả quần, cả áo.

Máu kẻ thù còn tươi, chỉ cần chục gầu nước xối qua, là hết dấu vết.

Ðêm hôm đó nó cứ suy nghĩ mông lung, rồi cảm thấy hối hận vì đã lỡ lời thổ lộ chuyện nhà cho anh Phụ, khiến cho tình nghĩa anh em tổn thương, đang là bạn bỗng chốc hóa ra thù.

Nó tự trách mình đã quá nặng tay. Chắc giờ này anh Phụ đang đau đớn lắm? Chắc giờ này anh ấy oán hận nó lắm?

Càng nghĩ lại chuyện xảy ra sáng nay, nó càng thấy thương hại anh Phụ, nó càng thấy mình có lỗi với bạn.

Ðêm đã khuya mà mắt vẫn còn mở thao láo, nó bèn đưa hai bàn tay lên xoa mặt tìm giấc ngủ.

Nó giật mình vì thấy mặt nó đau ê ẩm khi bị bàn tay chạm vào. Ðồng thời đầu lưỡi của nó cảm thấy mùi vị của máu tươi vừa tuôn ra từ những vết thương trên môi, trên mép chưa lành. Mùi máu tanh tanh, vị máu mằn mặn, xót xa, xót xa…

Nhắm mắt lại vài giây, rồi mở mắt ra, nó lại đưa tay lên mặt lần nữa.

Nó tiếp tục xoa nhè nhẹ, nhè nhẹ. Hiện giờ má trái của nó đã sưng u lên như cái bánh bao! Hai môi nó cũng phồng lên như hai miếng bánh dầy.

Trước mắt nó chợt hiện ra đôi mắt đổ lửa của thằng anh.

Trước mắt nó chợt hiện ra hai cái nắm đấm to như hai quả cân của bà hàng thịt.

Ngay lập tức, lòng nó bỗng trở thành lạnh tanh.

Suốt đêm 27 tháng Chạp Âm Lịch, nó miên man suy nghĩ về chuyện bố nó bị người ta giết, chuyện tờ giấy bạc hai chục chú Tường cho, chuyện vô cớ bị thằng bạn cướp tiền, rồi còn bị tát sưng cả mặt mày…

Cuối cùng nó thở phào nhẹ nhõm, vì trong đầu nó vừa hiện ra con đường tương lai mà nó sẽ phải đi theo.

Thế là, chỉ sau một đêm, thằng bé sáu tuổi rưỡi đã biến thành một người trưởng thành.

Ngày 28 Âm Lịch là ngày ăn tiệc tất niên, nó không dám bỏ lớp, nên đánh liều ra khỏi nhà với cái kéo trong túi quần.

Theo đường Thống Nhất, nó đi thẳng tới Tòa Hành Chánh, vòng lên Ga, rồi mới đi xuống Trường Nam Tiểu Học Hải-Dương. Nó tránh xa rạp hát Kim Phụng, vì sợ anh Phụ mai phục đâu đó đón đường.

Tới trường, nó đứng núp sau lưng tụi bạn cùng lớp rồi len lén quan sát xem bên lớp Ba có bóng dáng cao lớn của người anh kết nghĩa không.

Nó thở ra khoan khoái khi không thấy anh học trò khổng lồ 18 tuổi thường đi đoạn hậu của lớp này.

Sau tiệc tất niên, học trò được nghỉ.

Mùng Mười Tết, quay lại trường, nó vẫn không thấy anh Phụ.

Nó hỏi dò thằng bạn tên là Ðoàn Ðình Ngữ ngồi bên cạnh là người hàng xóm của anh Phụ,

– Mày có biết vì sao anh Phụ nghỉ học không?

Thằng Ngữ nhanh nhảu đáp lời,

– Anh Phụ bị ngã gãy chân, đi cà nhót, cà nhót, chỉ quanh quẩn trong sân cả chục ngày rồi.

Rồi cả tháng sau thấy anh Phụ vẫn vắng bóng, nó lại hỏi thằng Ngữ,

– Lâu rồi mà chân của anh Phụ vẫn chưa lành sao?

Ngữ vỗ đùi,

–  Ông ấy tình nguyện đi lính pa đờ suýt rồi! Bố tao nói học lớp Ba mà vào lính thì chỉ lên tới ca pô ran là cùng. Tao sẽ học tới đíp lôm rồi mới đi lính. Tao sẽ đi lính sĩ quan. Làm sĩ quan oai hơn là làm ca pô ran.

(Chú thích: Pa đờ suýt là lính Nhảy Dù của Tây- Ca pô ran là hạ sĩ lính Tây- Ðíp lôm là bằng Trung Học Ðệ Nhất Cấp của Tây)

Xem thêm:   Làng gốm!

Sau này thằng Ðoàn Ðình Ngữ học tới tú tài và tốt nghiệp Khóa 19 Sĩ Quan Ðà-Lạt.

Nghe thằng Ngữ nói làm sĩ quan oai hơn là làm ca pô ran, thằng bé cũng muốn khi lớn lên nó sẽ đi làm sĩ quan. Nó mà làm sĩ quan thì anh ca pô ran tên là Phụ sẽ không dám bắt nạt nó nữa.

Tuổi thần tiên của một đời người là thời gian vừa biết nói cho tới ngày vào lớp Năm, lớp Tư. Tuổi Mẫu Giáo và lớp Năm, em bé được nghe những truyện thần tiên do cha mẹ, ông bà kể.

Tuổi lớp Tư, em bé được đọc truyện thần tiên trên sách báo Thiếu Nhi.

Trong đầu em bé suốt ngày, suốt đêm, chứa chất đầy mộng đẹp.

Tới lớp Ba thì coi như tuổi thần tiên đã đi qua, vì em bé bắt đầu đọc những trang Quốc Văn Giáo Khoa Thư để trở thành một người công dân tốt sau này.

Thằng con bà Sen thực sự chưa từng được biết thế nào là tuổi thần tiên.

Không rõ trên thế gian này có một tuổi thơ nào giống như tuổi thơ của thằng bé sáu tuổi rưỡi này không?

Ba tuổi, 1945 nó sống sót sau nạn đói Ất Dậu.

Bốn tuổi, 1946 nó theo mẹ trốn chạy chiến tranh Việt Pháp, rồi trải qua những cơn sốt rét thập tử nhất sinh trên vùng rừng núi Ðông Triều đầy sơn lam chướng khí.

Sáu tuổi, 1948 nó hồi cư; nửa năm sau nó nghe tin bố chết; bỗng chốc, đứa học trò lớp Năm mang trên vai một mối đại thù.

Sau Tết ít lâu, chủ nhà hồi cư, đòi lại nhà, vợ chồng chú Sử và mẹ con nó phải dọn về số 24 Jean De Bouchet ở chung với gia đình anh ruột của mẹ nó và bà ngoại nó.

Giữa năm lớp Tư, nhà nó lại dọn nhà lần nữa, tới số 17 phố Hàng Lọng.

Ðầu năm 1952, vừa làm quen với những trang Quốc Văn Giáo Khoa Thư thì gia đình nó di chuyển lên làng Vẽ, tức là làng Ðông-Ngạc huyện Quảng-Bá, ngoại ô Hà-Nội.

Ngày 17 tháng 7 năm 1954 gia đình nó di chuyển vào Ðà-Nẵng.

Ba ngày sau, 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Geneve được ký kết, nước Việt-Nam bị cắt làm hai.

Chú Tường lưu lạc nơi nào không ai hay. Chú Phan Ngọc Yên ở lại Miền Bắc. Các chú Trần Văn Sử, Trần Văn Lâm và Trần Phương Quế đều theo học lớp sĩ quan Ðà-Lạt.

Chú Trần Văn Sử sau khi thuyên chuyển về Vùng 4 không biết còn sống hay đã chết.

Năm 1968 nó nghe tin chú Lâm đã là đại úy, giữ chức vụ gì đó trong khu Quang-Trung của Trường Võ Bị, gia đình chú thì cư ngụ trong trại gia binh ở gần hồ Saint Bénoit.

Nó đã bỏ công lái xe vòng vòng hai tiếng đồng hồ trong khu Mê Linh để tìm thăm chú.

Nhưng hai mươi năm sau, chú Lâm đã quên họ, quên tên người “Ðại ca” của chú ấy mất rồi!

Nó thấy người đàn em của bố nó có vẻ như không muốn nhắc lại cái thời dĩ vãng xa xôi ngày xưa. Vì thế, nó chỉ ghé thăm ông ấy một lần rồi không bao giờ quay lại.

Riêng chú Trần Phương Quế sau một thời gian gián đoạn đã liên lạc được gia đình nó. Chú Quế sau này trở thành một đại tá của Quân Ðội Việt-Nam Cộng-Hòa.

Ðại tá Trần Phương Quế là vị Trung Ðoàn Trưởng sau cùng của Trung Ðoàn 9/ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh.

Lẫn trong dòng đời, thằng bé đã lớn lên, trông già hơn những đứa bạn cùng trang lứa, cô đơn hơn những đứa bạn cùng trang lứa; kiến thức của nó khác hẳn kiến thức của những đứa học cùng lớp, và ước vọng của nó cũng khác hẳn ước vọng của những người cùng thời.

Ðể trả thù nhà, thằng bé đã chọn binh nghiệp.

Mười năm vào sinh ra tử, nó đã vươn lên như một cây thông, thẳng đứng, lừng lững giữa trời, không vịn vào ai, không dựa vào ai.

Thế rồi chiến tranh tàn, người thua trận cứ mãi mang trong lòng một nỗi buồn khôn nguôi vì nợ nước thù nhà không trả nổi.

Thời gian qua như tên bay, thằng bé ngày xưa đã thành một ông già…

VML