Lời Giới Thiệu: Hiện thời, hàng năm, cứ tới ngày 15 tháng 4 thì chính quyền Cộng-Sản của Thành Phố Pleiku lại tổ chức lễ hội kỷ niệm Chiến Thắng Cứ Điểm 711 tháng 4 năm 1974. Tuy vậy, đa phần dân chúng Pleiku đã không biết rõ vì sao lại có lễ hội này. Trong hồi ký “Cao Nguyên sau ngày đình chiến” của Vương Mộng Long có một chương đặc biệt tường thuật thật chi tiết diễn tiến của trận ác chiến đã xảy ra trên Cứ Điểm 711 năm xưa. Hy vọng hồi ký này sẽ giải đáp phần nào những thắc mắc của dân chúng Pleiku và giúp các bạn trẻ Việt-Nam đang lưu tâm tới công việc sưu tầm chiến sử có thêm tài liệu để tham khảo.
Hai giờ sau, địch tiếp tục tung ra đợt biển người thứ hai, cũng cùng một kỹ thuật tiến công, cũng cùng hướng tiến, rồi cũng bị đẩy lui.
Như vậy là, qua một ngày kịch chiến, Trung Ðoàn E48 và một tiểu đoàn Trinh Sát của Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đã bị quân ta đánh bại.
Tới 4 giờ sáng, địch bỗng đổi hướng, liên tiếp tung ra hai lần xung phong từ Tây Bắc xuống nhắm vào khu Chi Ðoàn 3/19.
Cách đánh của đơn vị Việt-Cộng này khác hẳn cách đánh của Trung Ðoàn E 48/320A Cộng-Sản.
Sau khi dàn quân trước tuyến xung phong thì bọn Việt Cộng này tập trung hỏa lực bắn tới tấp vào một vị trí trên mục tiêu với đủ loại vũ khí cộng đồng để mở khẩu, sau đó mới ào ạt tiến lên.
Tới khi tiến vào được trung tâm của ta thì các cán binh địch tự động phân tán, rồi nhanh tay ném thủ pháo vào các pháo đài, công sự, chiếm được chỗ nào thì bám trụ chỗ đó.
Sau khi đơn vị địch bị đẩy lui, tôi mới được Bộ Tư Lệnh 22 cho hay, địch vừa điều động Trung Ðoàn E64 vào vùng để thay thế cho E48.
Như vậy, tổng kết lại, trong đêm 14 rạng 15 tháng 4 năm 1974 đã có 4 lần biển người diễn ra.
Hai đợt xung phong đầu là do E48, hai đợt sau là do E64.
Chưa ai chợp mắt được phút nào thì trời đã sáng.
Ngày 15 tháng 4 năm 1974:
Sớm tinh mơ ngày 15 tháng 4, chúng tôi nhận được điện văn khen ngợi của Chuẩn tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh vì đêm qua đã đẩy lui ba tiểu đoàn địch!
Dù biết ngoài bờ tường đất Plei Ngol Ho địch chết rất nhiều, nhưng tôi không thể cho người ra thu chiến lợi phẩm, vì tiếng súng bắn nhau đã bắt đầu nổ trở lại.
Tới đợt xung phong thứ nhì trong ngày, tức là đợt biển người thứ sáu của Cộng-Quân nhắm vào Plei Ngol Ho thì anh chuẩn úy đẹp trai Trương Trọng Tài chết trên chiến hào.
Tài bị một tràng AK trúng ngực, ngã ngửa, nằm vắt trên bờ đất, cách tôi chừng mười thước.
Trong lúc Hạ sĩ Nguyễn Ba và Binh Nhứt Yang bắn như tưới đạn về phía địch thì tôi len lách dưới giao thông hào tới bên Tài.
Tôi vuốt mắt cho thằng em cựu học sinh Trung Học Trần Quý Cáp,
– Vĩnh biệt em tôi!
Tôi quay qua hướng Thiếu úy Phiến,
– Anh sẽ cho người thay chú Tài.
Rồi tôi ngoắt tay cho Hạ sĩ Ba và Binh 1 Yang,
– Hai đứa về nói với Trung úy Chủ cho hai sĩ quan thực tập đi theo tụi mày ra Ðại Ðội 3 ngay!
Ðợt xung phong thứ sáu chấm dứt, mặt Tây tạm yên thì có tiếng súng nổ bên hướng Ðông.
Tôi chạy về khu chỉ huy gọi Thiếu úy Trần Văn Phước rồi thầy trò tôi lần mò theo bờ rào sang tuyến phòng thủ của Ðại Ðội 1.
Thiếu úy Phạm Văn Tô đang rầy la một chú tân binh trẻ, anh chàng này vừa làm cướp cò khẩu súng M16 của anh ta.
Mãi tới lúc tôi đến sát bên, thầy trò ông Tô mới hết la mắng nhau.
Lính Ðại Ðội 1 đa số là người Chàm và người Việt gốc Miên.
Thấy tôi, anh em lộ rõ niềm vui ra mặt.
Có lẽ ít khi họ có dịp được một ông tiểu đoàn trưởng tới an ủi, hỏi thăm dưới cơn mưa pháo.
Tôi trở về hầm chỉ huy vào lúc Bộ Tư Lệnh 22 Hành Quân thông báo rằng họ sẽ đánh một box bom mỗi chiều 1km cách tôi 6 cây số về hướng Tây Tây Nam. Box bom này do những oanh tạc cơ A37 thực hiện.
Tôi khiếu nại rằng, hiện giờ tôi sắp hết đạn rồi, tôi xin ưu tiên được phi cơ đánh cận phòng, tôi không cần yểm trợ xa.
Tôi lại nhận thêm lời hứa, “Chờ!”
Tôi đang bực mình vì lời hứa, “Chờ!” của cấp trên thì nghe tiếng ông Chi đoàn trưởng Chi Ðoàn 3/19 hỏi rằng lúc nào sẽ có tiếp tế đạn cho ông ta?
Thế là, tôi đành chuyển tiếp tiếng, “Chờ!” cho ông Xá!
Ai ngờ, năm phút sau Ðại úy Xá cho người khiêng sang cho tôi sáu két đạn M16.
Ðại úy Xá nói với tôi,
– Tụi tui thiếu đạn 12.7 ly nhưng dư đạn M16 nên chia bớt cho Biệt Ðộng Quân.
Tôi mừng húm, vừa cười vừa nói với Xá,
– Cám ơn! Cám ơn!
Tới trưa 15 tháng 4 thì ba mặt Bắc, Tây và Nam của Plei Ngol Ho lại bị địch tiến đánh. Mặt nặng nhất vẫn là chính Tây do Thiếu úy Tăng Ngọc Phiến trấn giữ.
Sau khi ra lệnh cho Ðại úy Xá và Trung úy Chủ phải cố gắng giữ tuyến Bắc, tôi nắm tay anh lính mang máy PRC 25 nương theo bờ đất chạy tới căn lều của Thiếu úy Phiến.
Ðạn địch cứ “Chíu! Chíu!” bên tai. Tới hầm của Thiếu úy Phiến, tôi thấy Phiến đang quỳ gối bên cái poncho trên có một người đang nằm ngửa, mặt đầy máu. Khi tôi tới sát bên, Phiến buồn rầu,
– Anh Tuấn chết rồi!
Trước mắt tôi là xác người sĩ quan thực tập Võ Bị khóa đàn em của tôi. Chú ấy tên là Tuấn. Tuấn bị bắn vỡ đầu.
Ngay lúc này, ở hai ụ pháo binh hướng chính Nam bỗng có tiếng la hét om sòm chen với tiếng tiểu liên.
Thấy mấy anh lính Công Binh mặt mày hớt hải đang núp sau chiếc xe ủi đất, tôi men theo giao thông hào đi tới, định bụng sẽ hỏi han họ có chuyện gì lạ, thì nghe lựu đạn liên tục nổ “Oành! Oành!” trên tuyến dàn quân sau tường đất.
Quay lại đằng sau, tôi thấy những trái thủ pháo đang theo nhau rơi trên sân, nơi tiếp giáp giữa Ðại Ðội 3 và hai ụ pháo binh. Cứ thế, thủ pháo nổ, “Ùm! Ùm! Ùm!”
Rồi thì khói vàng từng cụm bốc lên sau những tiếng “Ùm!”
Lúc này gió thổi từ Bắc xuống Nam. Gió đưa những lọn khói vàng tràn xuống triền đồi hướng Tây Nam.
Những người lính đang ngồi dưới giao thông hào đã bị khói vàng quấn vào. Tôi thấy họ ôm ngực, ho khan, rồi ngồi xuống, rồi gục xuống. Như thế thì khói vàng là khói độc! Khói vàng là hơi ngạt!
Tôi nghe tiếng Thiếu úy Tăng Ngọc Phiến la thất thanh,
– Anh em ơi! Lựu đạn Việt-Cộng có hơi độc! Bịt mũi lại! Chạy lên đầu gió!
Sau đó thì anh em bỏ tuyến, ùn ùn chen lấn nhau chạy về hướng Ðông Bắc.
Lúc này thực là hỗn quân, hỗn quan, không còn đội ngũ gì nữa, mạnh ai nấy chạy ra khỏi vùng khói vàng.
Tôi nhìn quanh mà thấy sợ, vì lúc rời hầm chỉ huy tôi không kịp gọi Hạ sĩ Ba và Binh nhứt Yang đi theo. Còn anh Hạ sĩ Ðiêu Lon, người mang máy nội bộ của tôi vừa thấy quân của Thiếu úy Phiến ùn ùn tháo chạy, anh ta cũng vác cái máy PRC 25 phóng theo, bỏ tôi đứng chóc ngóc một mình bên cạnh chiếc xe ủi đất.
Thấy chiếc xe đứng lù lù giữa sân có thể trở thành mục tiêu cho địch, tôi bèn rút khẩu Colt 45 ra khỏi bao, rồi chạy tới núp bên chân bụi tre gai nằm sát bờ hào.
Khói vàng chưa tan tôi đã thấy địch quân căng hàng ngang, ào ạt xung phong vào khu hai khẩu pháo và dãy lều tranh chứa đạn pháo binh. Trên đầu mỗi tên địch đều trùm một cái bao nylon thay cho mặt nạ chống hơi độc.
“Cành! Cành! Cành…” bốn, năm cán binh Việt-Cộng đầu trùm bằng bao nylon trắng vừa phóng qua tường đất vừa bắn như mưa về hướng quân ta đang rút lui.
“Oành! Oành!” hai trái B40 trúng ngay hông chiếc xe ủi, nơi tôi vừa thoát đi! Khói bụi bay tung! Hú hồn!
Vì bụi tre gai khá lớn và xum xuê nên bọn địch không nhìn thấy tôi.
Mưa đang rơi, càng lúc càng nặng hạt.
Tôi nhấp nhổm vừa định phóng sang khu giao thông hào hướng Bắc thì nghe một tiếng “Oạch!” sát bên! Thì ra một cán binh vừa trượt chân sau khi leo qua bờ đất, ngã sõng soài.
Tôi bóp cò, “Ðoàng!” cái nón cối tung lên, người trúng đạn quằn quại, quằn quại…
Không cần kiểm soát xem tên địch còn sống hay đã chết, tôi co giò phóng đi.
Vài giây sau tôi đã nhìn thấy căn hầm của trung tâm hành quân.
Giờ này không còn người lính nào ở giữa sân, không còn ai trong hầm súng cối, không còn chiếc chiến xa M113 nào.
Như vậy là nơi đây đã bị bỏ trống! Nhưng tôi không thấy dấu vết giao tranh và trên mặt đất không có xác chết nào.
Tới cách cửa hầm truyền tin chừng mười thước tôi chợt nghe tiếng heo kêu “Éc! Éc! Éc!” rồi thấy năm hay sáu cái nón cối đang hùa nhau vây bắt một con heo mới xổng chuồng. Con heo bự nặng cả trăm ký lô này là thực phẩm tươi của đơn vị vừa được tiếp tế mấy ngày trước, chưa kịp làm thịt.
Chú heo trắng cứ vừa kêu “Éc! Éc!” vừa nhanh thoăn thoắt, chui vào, chui ra, một bụi tre gai như đang chơi trò cút bắt với mấy tên bộ đội cụ Hồ.
Thấy vậy, tôi vội quay người sang trái, nhắm hướng bãi đáp trực thăng chạy thục mạng.
Bất thình lình, từ sau cái lều vải của ông Chi đoàn trưởng Chi Ðoàn 3/19, ba người mặc quần áo xanh của bộ đội chính quy Bắc Việt ào tới.
Tôi giơ súng bóp cò, “Cành!” chẳng biết viên đạn bay đi đâu mà khẩu súng bỗng nhẹ tênh!
Súng nổ mà không giựt! Súng của tôi bị “hóc” rồi!
Cái vỏ đồng thay vì bay qua cửa sổ tống đạn để văng ra ngoài, lại xoay ngang, nằm kẹt ngay giữa cửa sổ tống đạn!
Ðúng là “Họa vô đơn chí!”
Cây Colt 45 “phản chủ” lại lựa đúng giờ phút này mới giở quẻ!
Tôi buột miệng chửi thề, “Cha mày!” rồi xoay người chạy ngược trở lại hướng sân.
Vừa trở mình cất bước, tôi đã bị một tên bộ đội phóng tới ôm chặt. Hai đứa còn lại vội vàng gí mũi của hai khẩu AK47 ngay ngực tôi, sẵn sàng bóp cò.
Một thằng địch lớn tiếng quát,
– Ðứng im không tao bắn!
Tiếp đó, y trở ngược khẩu AK quật một báng súng ngang hông tôi khiến cho khẩu Colt 45 rơi xuống đất. Y giẫm chân lên khẩu súng của tôi rồi ra lệnh tiếp,
– Ðứng im để tao tháo dây đeo đạn của mày ra!
Không thèm để ý tới những lời la hét của những kẻ đang khống chế mình, tôi cứ cắn răng ra sức vùng vẫy thoát thân.
Bỗng tên địch đang ôm tôi la lên,
– Các đồng chí đừng bắn! Thằng này là thủ trưởng! Bắt sống nó!
Thì ra, y ta đã nhìn thấy cặp lon thiếu tá thêu bằng chỉ trắng trên ve áo của tôi. Y chắc mẩm phen này đã lập công lớn vì bắt sống được người chỉ huy một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Xưa nay, đi hành quân tôi thường đeo lon trắng để thuộc cấp dễ nhận ra tôi, khiến họ yên tâm hơn. Ðâu ngờ cũng vì cặp lon trắng mà hôm nay tôi bị địch bắt sống.
Một tên bộ đội nhanh nhẹn quàng súng vào vai, rồi ngồi xuống nắm cẳng tôi,
– Ðứng im để tao cởi dây giày của mày thì mới có dây để mà trói tay mày! Mày mà cựa quậy thì tao bắn gẫy chân đấy!
Thằng địch đứng sau lưng ôm chặt quá; tôi cố sức vùng vẫy được vài giây thì đã hết hơi, đành xuôi tay.
Thế là hết! Số mệnh tôi tới đây là chấm dứt! Tôi đâu có ngờ cuộc đời Biệt Ðộng Quân bao phen vào sinh ra tử của tôi lại bị kết thúc một cách tức tưởi và vô lý như thế này?
Giờ này bên trái tôi là một thằng địch, sau lưng tôi là một thằng địch, dưới chân tôi là một thằng địch; dù có ba đầu sáu tay tôi cũng không thể nào chạy thoát.
Nhưng sau khi hít vào một hơi dài lấy sức, tôi lại vùng vẫy tiếp. Rồi trong cơn tuyệt vọng, tôi vọt miệng tru lên như con thú rừng bị dồn vào đường cùng, “Á! Á! Á!”
Tiếng rú của tôi im bặt ngay sau khi ngực tôi bị một cú dập như trời giáng bởi cái đế súng AK 47. Thằng cán binh đứng bên trái tôi hét lên,
– Câm mõm lại! Mày mà còn la ó, ông sẽ đập gãy hết răng!
Cú đập của cái đế súng làm cho tôi hoa mắt, nghẹn hơi. Tôi rũ người xuống như một sợi bún.
Tên địch đứng sau lưng tôi vội nắm cổ áo tôi lên, rồi vòng cánh tay trái của nó kẹp qua cằm tôi, ghì người tôi sát vào người nó để thằng bạn nó tiếp tục tháo hai sợi dây giày của tôi.
Cuối cùng, tôi cũng đành đứng im, cố há miệng ra mà khò khè.
Tôi chợt nghĩ, tới nước này chỉ còn một con đường là, chờ cho chúng nó trói mình xong, rồi dẫn mình đi thì mình sẽ chạy. Mình mà chạy thì chúng nó sẽ bắn theo, mình sẽ chết. Mình chết, nhưng không thành một tù binh…
“Ðoàng!”- “Ðoàng!”
Bất thình lình, tên địch đứng bên trái tôi bị ai đó bắn trúng sọ, té lăn quay. Tên cán binh đang quỳ gối dưới chân tôi để gỡ dây giày cũng trúng một viên vào lưng, lăn lộn vài ba vòng trên nền đất rồi nằm bất động.
Ngay khi đó, theo phản xạ, tôi ra sức hét thật to:
“Buông tay ra!”
Có lẽ tiếng hét của tôi quá lớn, lại sát bên tai, nên tên Việt-Cộng đang kẹp cổ tôi giật mình, vội buông tay ra.
Ngay lập tức, tôi xoay người về phải, đánh một cái cùi chỏ.
Ai ngờ, cú đánh cùi cầu âu, gỡ rối, của tôi lại vô tình trúng ngay quai hàm thằng địch.
Trúng đòn, nó loạng quạng, chúi mũi, cắm đầu về phía trước.
“Ðoàng! Ðoàng!”
Sau hai tiếng nổ, thằng Việt-Cộng giãy đành đạch trên nền đất.
Trước mặt tôi là Thiếu úy Trần Văn Phước, trên tay Phước mũi súng Colt 45 vừa toé lửa, đang bốc khói.
May quá! Ông sĩ quan Ban 2 của tiểu đoàn mà không có mặt kịp thời thì tôi toi mạng rồi!
Thì ra, trong lúc hỗn quân, hỗn quan, không thấy tôi đâu, Thiếu úy Trần Văn Phước đã chạy đôn, chạy đáo khắp nơi để tìm tôi. Kịp khi Phước về tới bộ chỉ huy thì nơi đây đã bị địch tràn ngập.
Với một khẩu súng ngắn, chưa biết làm gì để đối phó với mấy thằng Việt-Cộng tay lăm lăm AK47 đang vây bắt một con heo thì bất chợt Phước nghe tiếng tôi kêu rú thất thanh, rồi thấy tôi đang bị địch ôm chặt cứng, hết cựa quậy. Thế là Phước liều thân vác cây Colt 45 chạy tới cứu viện.
Hai viên đạn đầu, Phước đã bắn trúng sọ, trúng lưng hai thằng địch; viên đạn thứ ba chưa được bắn ra chỉ vì Phước sợ bắn lầm vào tôi.
Kịp khi thằng Việt-Cộng bị tôi đánh cho một cùi chỏ, ngất ngư, Phước liền lẫy cò liên tiếp hai lần.
Phước dang đôi tay ôm tôi, miệng thì la lớn như giữa chốn không người,
– Em xin lỗi Anh Hai! Em đã tới chậm!
Cũng may, lúc này mấy tên Việt-Cộng trang bị AK và con heo đã đuổi nhau chạy đi đâu mất tiêu.
Tuy vậy, không xa nơi tôi đứng, lại bắt đầu nghe có tiếng súng địch nổ rộ cùng tiếng thét “Xung phong!” – “Xung phong!”
Ðợt tấn kích thứ hai lướt qua thật là nhanh, lần này địch vẫn còn đeo bao nylon chống hơi cay. Mục tiêu vẫn là khu pháo binh hướng Nam và dãy lều tranh bên chiếc xe ủi đất. Trong màn mưa phùn, những thằng địch cứ cắm đầu chạy, nhắm mắt bắn bừa, không nhìn thấy tôi và Thiếu úy Phước ngồi thu mình sát bụi tre.
Tôi nhặt khẩu Colt 45 lên cọ qua, cọ lại trên ngực áo cho sạch đất bụi, rồi móc ve dầu chùi súng mini từ trong cái túi cấp cứu trên dây ba chạc ra, tưới dầu lên hai rãnh cơ bẩm.
(còn tiếp)