Sốt là khi nhiệt độ trong người cao hơn mức trung bình.

Nhiều nhà chuyên môn đề nghị chính xác hơn: sốt là khi nhiệt độ lên cao vì một bệnh nào đó chứ không phải vì các lý do thông thường như sự tiêu hóa thực phẩm, khi có cảm xúc mạnh, khi vận động cơ thể, có thai, có kinh nguyệt…

Cẩn thận hơn, có người thêm là nếu nhiệt độ cơ thể lên quá 37.2°C kèm theo đổ mồ hôi, hơi thở nhanh, mạch máu ngoài da dãn nở, đó là sốt.

Nhiệt độ bằng hoặc cao hơn 38°C (100°F) khi đo ở hậu môn, hoặc cao hơn 37.5°C (100.4°F) khi đo ở miệng là sốt.

Bảo Huân 

Ở người bệnh, nhiệt độ được đo ba lần trong ngày, được ghi lên một biểu đồ để giúp theo dõi bệnh trạng. Một số bệnh có những cơn sốt đặc biệt, cho nên biểu đồ nhiệt độ cũng giúp chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn:

– Sốt định kỳ (relapsing fever) với vài ngày nhiệt độ lên cao rồi vài ngày bình thường như trong bệnh sốt rét.

– Sốt lên xuống hai lần trong ngày ở bệnh viêm khớp, thấp khớp.

– Sốt liên tục (Continuous fever) trong ngày như viêm sưng phổi.

– Cơn sốt tăng giảm từng lúc (remittent fever) như trong bệnh lao phổi với nhiệt độ buổi sáng cao hơn buổi chiều.

– Sốt từng hồi hoặc gián đoạn (intermittent fever).

Sốt diễn ra theo ba giai đoạn:

a-Cơ thể phản ứng với tác nhân gây sốt bằng cách tăng bạch cầu, nhiệt độ lên cao, da lạnh, cơ thể run rẩy, mạch máu ngoại vi co hẹp, lông tóc dựng đứng, da xanh nhợt, khô.

b-Trong giai đoạn 2, nhiệt độ giữ ở mức cao, cơ thể hết run.

c-Sau đó, nhiệt độ giảm, mạch máu ngoại vi dãn nở, đổ mồ hôi, da lạnh và trở lại màu sắc bình thường.

Sốt có thể ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn thường là khoảng 2 tuần lễ, trong các trường hợp nhiễm vi khuẩn. Dài hạn lâu hơn hai tuần lễ như trong trường hợp ung thư hoặc sốt không rõ nguyên nhân (FUO).

Theo các khoa học gia, một cơn sốt nhẹ làm tăng interferon, một chất thiên nhiên chống virus và ung thư; tăng khả năng diệt vi khuẩn của bạch huyết cầu và lymphô bào. Nhiệt độ cao cũng gây cản trở cho sự tăng sinh của vi khuẩn.

Quan sát ở súc vật, người ta thấy khi một con thằn lằn bị vi khuẩn xâm nhập, nó sẽ bò ra phơi mình ngoài nắng để tăng nhiệt độ cơ thể.

Nguyên nhân gây sốt

Sốt có thể gây ra do các nguyên nhân từ ngoài hoặc từ trong cơ thể.

  1. Nguyên nhân từ ngoài cơ thể:

– Nhiễm các loại vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng.

– Dưới tác dụng của vài dược phẩm như kháng sinh nhóm Penicillin, sulfonamide, thuốc chữa bệnh lao, thuốc an thần loại barbiturates, thuốc chống kinh phong phenytoin, thuốc xổ táo bón, chất interferon, các loại thuốc kích thích (Ecstasy, angel dust…)

– Tiêm vài chất đạm lạ đối với cơ thể như các loại globulin trị bệnh uốn ván.

– Truyền máu.

– Thời tiết oi ả, nóng bức, tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.

Bảo Huân

  1. Nguyên nhân từ cơ thể:

– Do sự hủy hoại tế bào sau thương tích, thiếu dinh dưỡng, viêm sưng mô bào, bệnh của các mô liên kết như thấp khớp, lupus ban đỏ SLE, thống phong, xuất huyết dạ dày, thiếu máu các cơ quan (nhồi máu cơ tim, lá lách…)

– Phản ứng miễn dịch của cơ thể khi vật lạ xâm nhập.

– Các trường hợp tế bào mới tăng sinh bất thường như trong khối u ác tính hoặc lành tính. Nhiệt độ có thể kéo dài cả tháng, đôi khi cả năm và là vấn đề nguy hiểm cần để ý.

– Rối loạn chuyển hóa cấp tính như trong cơn cường tuyến giáp, bệnh thống phong

– Tình trạng khô nước trong cơ thể.

– Có nhiều trường hợp sốt vì thay đổi trực tiếp của trung tâm điều hòa thân nhiệt chứ không do tác nhân gây sốt từ ngoài hoặc trong cơ thể. Chẳng hạn khi bị u bướu, xuất huyết hoặc khối huyết não.

– Xúc động mạnh cũng làm thân nhiệt tạm thời lên cao. Có nhiều trường hợp, khi mới nhập viện, nhiệt độ lên cao trong vài ngày rồi giảm, vì người bệnh lo sợ bị bệnh nặng.

Một số loại sốt mang địa danh quốc gia như sốt Dương Tử Giang với nhiễm Schistosoma japonicum, sốt xuất huyết dịch Korea, sốt đảo Chypre do nhiễm khuẩn Brucella melitensis, ban nhiệt Sao Paulo, sốt định kỳ Mỹ USA recurrent fever…

NÝĐ

Arlington