Năm 1956 Saburo Sakai cho xuất bản hồi ký Samurai!, được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành bestseller trên toàn thế giới. Sakai đi vào huyền thoại với biệt danh “võ sĩ đạo của không trung”, The Sky Samurai hay Samurai of the Skies. Hai năm sau, Hạm trưởng Tameichi Hara viết hồi ký Khu Trục Hạm Xứ Mặt Trời Mọc cũng nhanh chóng thành sách cần tham khảo cho những nghiên cứu về thủy chiến. Hara, cũng dòng dõi Samurai, nhận biệt danh “võ sĩ đạo của biển cả”, The Sea Samurai.

Khác biệt nào giữa Sakai và Hara? Rất nhiều. Vì Hara lên đến chức hải quân đại tá tương đương với một không đoàn trưởng hay một trung đoàn trưởng bộ binh, trong lúc Sakai chỉ vừa lên trung úy trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Tầm nhìn của Sakai, như thế, giới hạn vào những phi vụ không chiến cá nhân trong khi nhãn quan của Hara phủ rộng các thủy đoàn. Đặc biệt Hara là lý thuyết gia phóng ngư lôi của Hải quân Nhật và được xem là hạm trưởng tài ba nhất, “The Unsinkable Captain”, đã tham dự hầu hết các trận thủy chiến lớn

Nếu hồi ký của Hara ít chi tiết tình cảm lâm ly như mối tình giữa Sakai với Hatsuyo trong Samurai!, thì ngược lại, người đọc nhìn thấy việc vận hành và tham chiến của các hải đoàn Nhật Bản trên nhiều mặt: Học thuyết, chiến thuật, kỷ luật và những quyết định sống chết trên đài chỉ huy.

Như đã làm với hồi ký của Sakai, một lần nữa xin phép dịch giả Nguyễn Nhược Nghiễm cho hiệu đính và bổ túc bản Việt ngữ của ông (đã dịch từ bản Anh văn Japanese Destroyer Captain) qua đối chiếu với bản Pháp văn Les Torpilleurs du Soleil Levant của René Jouan. Và thay tựa tiếng Việt Yamamoto và Những Trận Đánh Lịch Sử Trên Thái Bình Dương của Tủ Sách Lê Thanh Hoàng Dân bằng tựa tiếng Pháp Khu Trục Hạm Xứ Mặt Trời Mọc, vì Đô đốc Isoroku Yamamoto rất ít xuất hiện trong hồi ký và đây là câu chuyện của những tàu khu trục hạng nhẹ.

Sau hết, câu nói của Hara: “Cuộc bại trận này không hề gây tổn thương đến vinh dự, niềm tin và thành quả mà các thủy thủ Nhựt đã đạt được..” cũng có thể dành cho các binh sĩ VNCH. 

[Trần Vũ]

(*) Tameichi Hara giữ chức Hải đội trưởng Khu trục hạm (Destroyer Squadron Commander) rồi thăng hạm trưởng tuần dương hạm vào những tháng chót của cuộc chiến.

Bản dịch Nguyễn Nhược Nghiễm

Thay Lời Tựa

Khi Nhựt Bản bắt đầu hồi sinh sau đệ nhị thế chiến, dân chúng Mỹ có cái nhìn vô tư hơn đối với cuộc chiến, và càng ngày càng có nhiều người bắt đầu đòi hỏi những câu chuyện xoay quanh cuộc chiến này được nói thẳng ra. Nhiều quyển sách có giá trị đã được một số cựu phi công Hải quân Hoàng gia viết, phản ảnh trung thực sự hiểu biết về những trận không chiến mà các tác giả đã từng tham dự.

Nhiều người đã thúc giục tôi kể lại câu chuyện hải chiến thời ấy. Ðây không phải là một việc làm dễ dàng, bởi các thủy thủ chỉ được huấn luyện để chiến đấu mà không được huấn luyện về viết văn. Thực vậy, quyển sách này không thể ra đời nếu không có sự hợp tác hết lòng của một số đông thân hữu mà tôi không thể nào đề cập hết ra đây. Tuy nhiên tôi có thể nói là tất cả những người có tên trong quyển sách này đã được tôi đích thân phỏng vấn, hoặc đã tình nguyện cung cấp chuyện riêng của họ cho tôi.
Tôi đặc biệt ghi ơn người bạn của tôi, Ko Nagasawa, giữ chức vụ Tổng tư lịnh của Tân Hải Quân Nhựt khoảng thời gian từ 1954 đến 1958, là người không chỉ sẵn lòng cung cấp cho tôi các câu chuyện của chính ông, mà còn chỉ thị cho Phân bộ Lịch sử của hải quân hợp tác với tôi.Tất cả các sử gia của hải quân đã đóng góp rất nhiều vào quyển sách này bằng cách cho phép sử dụng các kết quả tìm tòi và nghiên cứu của họ, điều khiến tôi luôn luôn nhớ ơn.

Tôi tin quyển sách này sẽ cung hiến một quan điểm trung thực của phía Nhựt, có thể bổ túc cho nhiều quyển sách giá trị của người Mỹ đã viết trước đây, nhưng có một điều đáng buồn là hầu hết các tài liệu liên quan đến Nhựt đều thiếu chính xác. Khi viết, các tác giả Mỹ dựa vào các cuộc thẩm vấn những người còn sống sót hoặc cựu chiến binh, do chính những kẻ chiến thắng thực hiện vào thời gian sơ khởi của cuộc chiếm đóng, thành thử những chứng liệu của họ thường quá phiến diện.

Khi viết sách này, tôi đã cố gắng khách quan càng nhiều càng tốt, và để làm như thế, tôi phải đưa ra sự phê phán nghiệt ngã, không chỉ đối với chính tôi, mà còn đối với những thân hữu đã giúp đỡ tôi hết lòng. Thói quen của con người, và cũng là sự thất bại của mọi sĩ quan trong quân đội, là thường cố che đậy mọi lỗi lầm nếu không của chính mình thì cũng của đồng đội. Thực vậy, tôi đã thấy khổ tâm khi phải tránh sự thất bại này.

Xem thêm:   Đà Lạt & phượng tím

Sự phê phán và sự chơn thực của tôi có thể gây nhiều tổn thương cho các đồng nghiệp của tôi, và có thể cho phía đã chiến đấu chống lại tôi. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng độc giả, như thế, sẽ có một cái nhìn bao dung, và xin cố hiểu rằng thâm tâm tôi không muốn gây phiền lòng cho riêng một ai.

Sống sót sau khi tuần dương hạm Yahagi của tôi bị đánh chìm ở Okinawa vào tháng 4 năm 1945, tôi được bổ nhiệm về Trường Huấn luyện Ngư Lôi đỉnh Kawatana gần Sasebo và Nagasaki. Chức vụ chỉ huy mới của tôi là trông coi về công cuộc huấn luyện du kích chiến, dự phòng chống lại các cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ lên lãnh thổ của Nhựt Bản.

Lịnh đầu hàng của Nhựt Hoàng Hiro Hito ngày 15 tháng 8 năm 1945 đã xảy ra trong khi tôi đang đảm trách công việc huấn luyện một số thanh niên Nhựt cải trang thành phụ nữ hoặc tăng ni, cho mục đích đặc công chặn các lực lượng xâm chiếm, ở căn cứ Kawatana. Tôi đã giao nộp căn cứ này cho một Lực lượng Ðặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ, do Ðại tá Francis D. McCorkle chỉ huy, vào ngày 25 tháng 9 năm 1945.

Viên đại tá Mỹ, sau này lên đến chức đô đốc, đối xử với tôi với tư cách một người bạn hơn là một kẻ chiến thắng, điều này làm tôi ngạc nhiên. Ông ta yêu cầu tôi tặng ông ta một máy tính tốc độ của một trong những chiếc ngư lôi đỉnh tự sát Shinyo đang đậu ở quân cảng Kawatana. Tôi bắt buộc phải làm hài lòng ông ta.

Từ khi chiến tranh chấm dứt, tôi làm việc cho một công ty chuyển vận muối. Hai đứa con gái lớn của tôi kết hôn năm 1954, chồng của chúng, một là sĩ quan hàng hải, một là công chức. Con trai tôi, Mikito, đã vào đại học, vợ tôi, Chizu, khỏe mạnh và hạnh phúc.

Tameichi Hara, Đông Kinh, ngày 25 tháng 2 năm 1958

Phi Lộ

Trong suốt Thế chiến, từ 1941 đến 1945, toàn thể Hải quân Hoàng gia Nhựt sở hữu 25 hàng không mẫu hạm, 12 thiết giáp hạm, 18 tuần dương hạm nặng, 26 tuần dương hạm nhẹ, 175 khu trục hạm và 95 tiềm thủy đĩnh. Nhưng chính các khu trục hạm nhỏ bé, bất kỳ thời gian nào cũng không quá 130 chiếc, mới đích thực gánh mọi nặng nhọc nhất của cuộc chiến. Chúng là con ngựa của Hải quân Hoàng gia.

Những khu trục hạm bé nhỏ này không chỉ đơn giản được giao nhiệm vụ của các tàu chiến mà còn phải lãnh nhiệm vụ hộ tống các cuộc chuyển vận và có khi phải hộ tống hàng nhiều tháng, càng đặc biệt khi từ đầu năm 1943 đến giữa năm 1944, hầu hết các đại chiến hạm của Nhựt đều được “giữ gìn cẩn thận” cách xa mặt trận.

Khu trục hạm Nhựt từng tham dự rất nhiều hải chiến dữ dội và đạt nhiều chiến tích vẻ vang vào những ngày đầu cuộc chiến. Những chiến thắng này đã chứng minh tài điều động khu trục hạm của sĩ quan Nhựt vượt trội hẳn Ðồng Minh.

Tuy nhiên, từ giữa năm 1943 các khu trục hạm Nhựt đã hoạt động hết tháng này sang tháng khác mà không được bảo trì hoặc tu bổ đúng mức; cũng như sự khiếm khuyết nhân lực khó thay thế đã khiến các tàu chiến hữu hiệu này dần mất ưu thế trước các tàu cùng loại của Ðồng Minh. Thêm nữa, công việc phát triển các thiết bị kỹ thuật của Ðồng Minh đã đạt đến mức độ đáng kinh ngạc, và hơn nữa, họ dần chiếm lĩnh không trung.

Tuy nhiên, các khu trục hạm Nhựt vẫn chiến đấu ngoạn mục cho đến tàn cuộc chiến. Tôi nghĩ những thành tích của chúng đáng nhắc lại cho hậu thế. Ðành rằng những trận chiến của khu trục hạm không thể so sánh với những hải chiến quy mô và lừng danh chẳng hạn như thủy chiến biển San Hô, Midway, Mariana hoặc vịnh Leyte có cả sự tham gia của phi cơ và các thiết giáp hạm chủ lực, nhưng những nỗ lực và thành công của tàu khu trục hạm Nhựt cũng có tầm mức giá trị cần được ghi lại chi tiết. Nhứt là khi chúng đang dần bị lãng quên.

Các hàng không mẫu hạm Nhựt đã giữ vai trò hàng đầu trong trận Trân Châu Cảng, có thể nói một thành công, cũng như các cuộc hành quân quy mô sau đó, song đã đưa đến thảm bại hoàn toàn ở Midway, Mariana và vịnh Leyte.

Các tàu chiến lớn của Nhựt được Bộ Tư Lệnh Tối Cao nâng niu và “giữ gìn” bằng mọi giá, cho dù ngay khi gặp phải những tình thế tồi tệ nhứt. Như đại thiết giáp hạm Musashi 72,400 tấn, tiêu thụ nhiên liệu gấp 80 lần chiếc khu trục hạm lớn, chỉ tham chiến một lần và bị đánh chìm ở vịnh Leyte mà không có dịp may để sử dụng 9 khẩu pháo 460 ly nhằm vào bất kỳ một mục tiêu giá trị nào.

Xem thêm:   Facebook có gì ngộ (04/18/2024)

Chiếc Yamato 72,800 tấn, chiếc tàu song sinh với Musashi, chỉ tham chiến được 2 lần. Tại Leyte, chiếc Yamoto bị các hàng không mẫu hạm hạng nhẹ của Hoa Kỳ chận đứng. Và hai tháng sau đó trên đường tham dự nhiệm vụ tự sát ở Okinawa, thiết giáp hạm này bị đánh chìm ở Ðông Hải, cách bờ biển Nhựt Bản hơn 100 dặm.

Chỉ có những khu trục hạm nhỏ của Nhựt hoạt động liên tục trong suốt cuộc chiến và trong nhiệm vụ hộ tống các đại chiến hạm. Chúng đã đánh chìm nhiều chiến hạm, tàu ngầm, các dương vận hạm vận chuyển tiếp tế cho binh sĩ của địch quân.

Nhiệm vụ thích thú nhất của tôi trong hải quân có lẽ là khoảng thời gian lênh đênh trên các khu trục hạm và cũng có thể nói đó là nhiệm vụ mà tôi theo đuổi trong suốt cuộc chiến. Lúc ấy các đồng ngũ trong hải quân đã gọi tôi là “hạm trưởng huyền diệu” và chiếc khu trục hạm Shigure của tôi mang biệt danh “Kiên cố”. Tôi không nghĩ rằng tôi đáng được hưởng những lời khen ngợi ấy. Những sĩ quan thuộc 129 khu trục hạm của Nhựt bị đánh đắm, cũng giống như nhiều lực lượng hải quân khác đã ra đi vĩnh viễn lúc tài ba của họ còn đương bột phát và nhiều người trong số này vượt xa tôi. Thực ra sự sống sót của tôi chẳng qua là nhờ may mắn.

Giữa những kẻ sống sót như tôi, tôi tin rằng có những người tài cán bằng hoặc hơn tôi, nhưng họ tránh đề cập đến các thành tích của họ, dĩ nhiên họ đã làm theo châm ngôn: “Bại tướng không nên nhớ đến mình.” Riêng tôi, tôi quyết định “thách thức” câu châm ngôn này, không phải cho chính tôi, mà cho những khu trục hạm và những thủy thủ đã từng chiến đấu với chúng, một niềm tin thích đáng. Cho họ thấy rằng cuộc bại trận này không hề gây tổn thương đến vinh dự, niềm tin và thành quả họ đạt được.

Nếu quyển sách này có vẻ như đã nói quá nhiều về tôi, xin độc giả hiểu một cách đơn giản là tôi chỉ muốn cố gắng thể hiện một “mẫu thuyền trưởng khu trục hạm của Nhựt Bản”, với những thao tác thích ứng, cũng như các lỗi lầm của hắn, ngoài ra chẳng còn hàm ý nào khác.

Hồi ký này không thể nào ghi lại tất cả câu chuyện của từng khu trục hạm một. Ðặc biệt, tôi đã bỏ qua không đề cập đến khu trục hạm Yukikaze đã dự tám cuộc hành quân và các trận hải chiến quan trọng trong những ngày cuối của cuộc chiến nhưng vẫn còn tồn tại. Bởi lẽ theo thiển ý của tôi, các thành tích của Yukikaze trong khoảng thời gian từ 1941 đến 1944, Ðại tá Hải quân Ryokichi Ranma là người đủ tư cách để viết về. Tôi hy vọng ông sẽ viết đầy đủ chi tiết về chiếc Yukikaze qua các dữ kiện của riêng ông.

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi đã chịu đựng một cuộc tấn công kéo dài 90 phút của các phóng pháo cơ Avenger và chiến đấu cơ Hellcat của Hoa Kỳ. Chiếc tàu đã trúng 6 thủy lôi, 12 quả bom 250 cân Anh, và nhiều loại bom khác. Hình phạt này tỏ ra quá nhiều cho chiếc tàu dù nó đã chiến đấu dũng cảm.

Sáng sớm hôm đó, Yahagi khởi hành từ biển Nhựt Bản với 8 khu trục hạm và thiết giáp hạm khổng lồ Yamato. Mục tiêu của các chiếc tàu này là Okinawa. Nơi đây, một cuộc tấn công tự sát sẽ được tung ra nhằm vào các lực lượng xâm chiếm của Hoa Kỳ. Rõ ràng đây là một cuộc tấn công tự sát, bởi các tàu chiến của Nhựt chỉ mang theo đủ nhiên liệu cho lượt đi mà thôi.

Bấy giờ cách bờ biển Nhựt Bản không đầy 100 dặm, địch quân đã tung ra một cuộc tấn công dữ dội, chận đầu lực lượng đặc nhiệm Yamato và hạ gục tuần dương hạm nhẹ Yahagi.

Là hạm trưởng của Yahagi, tôi đứng trên đài chỉ huy vào lúc các lượn sóng đã mấp mé đến chân. Cùng đứng với tôi là Phó Ðô đốc Keizo Komura, tư lệnh lực lượng hộ tống. Quanh chúng tôi đầy rẫy sự hủy diệt do cuộc tấn công của địch gây ra. Trong lòng chiếc Yahagi, xác người lẫn lộn với các mảnh vỡ, không một vật gì còn nguyên vẹn sau cuộc không kích như vũ bão. Chiếc tàu nghiêng về tả mạn 30 độ và chìm nhanh chóng. Phó Ðô đốc Komura không bị thương, riêng tôi mặc dù máu chảy xuống ướt bàn tay trái, tôi cũng không hề có cảm giác gì gọi là bị trúng đạn.

Nhìn quanh lần cuối cùng, tôi thấy thiết giáp hạm Yamato, cách phía trước tôi khoảng 6 km, vẫn còn chiến đấu. Hai trong số các khu trục hạm của chúng tôi đã chìm. Ba chiếc khác đang bốc cháy dữ dội, hạ dần xuống nước và sau đó mất tăm hẳn. Ba chiếc còn lại đang chạy theo hình chữ chi một cách tuyệt vọng.
“Ði.”, Phó Ðô đốc Komura nói. Tôi gật đầu. Chúng tôi tháo giày và nhảy xuống nước. Ngay lúc đó chiếc tàu chìm xuống, cuốn chúng tôi theo tận dưới đáy Ðông Hải. Vực nước xoáy từ chiếc tàu chìm tạo ra đã nắm cứng lấy chúng tôi như một bàn tay vô hình có sức mạnh khủng khiếp. Tôi vùng vẫy một cách vô ích. Tôi ngộp thở và nuốt nước biển liên hồi. Quanh tôi tối đen như mực. Tôi đã chết? Chưa, tôi lại cố gắng vùng vẫy. Tôi không sao nhớ được đã trải qua bao nhiêu phút, nhưng đó là một thời gian rất dài đối với tôi, thình lình bàn tay có sức mạnh khủng khiếp đó buông tôi ra. Một làn ánh sáng mỏng manh phía trên, chứng tỏ tôi đang trồi lên mặt nước. Một dòng bọt từ mũi tôi túa ra và tôi lại uống nước. Tôi đạp mạnh vùng vẫy để bắt buộc bóng tối nhường lối cho bầu trời xanh và ánh nắng. Tôi giựt nẩy mình vì trồi lên mặt nước một cách quá đột ngột. Choáng váng đầu óc trống rỗng, tôi chỉ biết thả trôi trên mặt nước. Nhưng tôi nghe và nhìn thấy chiếc Yamato vẫn còn đang chiến đấu. Phi cơ của Hoa Kỳ quây quần như một bầy muỗi chung quanh chiếc tàu, và những trái hỏa tiễn chí tử được phóng ra, những trái bom liệng xuống, những trái ngư lôi phóng đi nhưng chiếc tàu vẫn tiếp tục chống trả. Cảnh tượng hào hùng này đã giúp tôi rời khỏi cơn ngơ ngác. Nhưng cảnh tượng trước mắt chẳng tồn tại lâu, vì tiếp liền đó, một cột lửa và khói trắng vĩ đại từ chiếc tàu bốc lên, che khuất mọi vật. Riêng cuộn khói bốc cao khoảng 6000 thước. Khi khói tan, tôi không còn thấy gì trên mặt nước nữa. Ðại chiến hạm Yamato, niềm kiêu hãnh của Hải quân Hoàng gia Nhựt, đã biến mình vào biển cả, điều này có nghĩa là vận mạng của Hải quân Hoàng gia đã cáo chung.

Thiết giáp hạm Yamato 72 ngàn tấn, 9 đại bác 460 ly

Tôi rùng mình. Những giọt lệ nóng dâng đầy đôi mắt và chảy xuống má. Tôi bám lấy một mảnh vụn và trôi lênh đênh một cách buồn bã.

Xem thêm:   Chuyện nhân duyên

Vận mạng của tôi cũng cáo chung. Từ đầu cuộc chiến Thái Bình Dương cho đến nay, tôi đã thực hiện hơn 100 hải xuất và, trong khi một số đồng đội của tôi đã vĩnh viễn ra đi, tôi luôn luôn trở về với những chiến thắng. Giờ đây tôi mới nếm mùi cay đắng của chiến bại lần đầu tiên trong đời binh nghiệp của mình.

Khi tôi biết mình chẳng có bất kỳ dịp may sống sót nào ở hiện tại, những hình ảnh của quá khứ bỗng nhiên tràn ngập tâm trí.

Tôi nhớ lại cuộc thảo luận đầy sôi động trong ngày hôm qua giữa 3 vị Ðô đốc và 10 hạm trưởng về mạng lịnh được gọi là chuyến đi cuối cùng của hải quân Nhựt. Không ai trong chúng tôi hy vọng nhiệm vụ thành công. Thiết giáp hạm Yamato cùng với tuần dương hạm Yahagi của tôi và 8 khu trục hạm khác phải trực chỉ Okinawa với số nhiên liệu vừa đủ cho lượt đi. Chúng tôi, với nhiệm vụ tự sát, sẽ tấn công với những gì mà chúng tôi có để chống lại hạm đội của Hoa Kỳ ở Okinawa. Nhưng chúng tôi đã bị đánh gục ngay trước nửa đường đến mục tiêu.

Tôi thấy hình ảnh những người trong gia đình tôi một cách sống động. Bỗng nhiên khuôn mặt của tôi như bị một màn mưa mờ che phủ. Tôi ứa nước mắt.

Tôi gào to: “Vĩnh biệt Chizu. Em là một người vợ hiền, là mẹ tốt của các con chúng ta. Vĩnh biệt hai con Yoko và Keiko, và Mikito, con trai của ba. Sau khi ba của các con ra đi vĩnh viễn, quê hương của các con trở thành xứ chiến bại, các con sẽ phải gánh chịu cảnh khốn cùng. Hãy tha lỗi cho ba! Hãy cố nhớ lại là ba đã làm tất cả những gì mà một người lính có thể làm.”

Sau đó, tôi nghe một giọng hát cất cao. Tôi không cô độc. Tôi nhìn quanh, nhận thấy nhiều chiến hữu khác đang lập lờ trên sóng nước. Dần dần tiếng hát của họ họp đoàn, bất chấp các tiêu lịnh huấn luyện đã cấm chỉ họ làm như thế. Qua tiếng hát đầy dẫy thê lương, tôi nghe như thấp thoáng bài “Chiến sĩ ca” xưa cũ:

Nếu tôi rời xa biển cả

Tôi sẽ trở về như một xác chết nổi trôi

Nếu nhiệm vụ gọi tôi lên núi

Ðồng cỏ xanh sẽ là áo liệm thân tôi

Vì đã nguyền hiến thân phục vụ Thiên hoàng

Tôi sẽ không chết yên bình giữa thê nhi êm ấm

Lệ tôi ngừng ứa, và tôi khép đôi mắt lại để hồi tưởng các con thơ, những ngày còn cắp sách đến trường, những người bạn sinh viên sĩ quan cùng khóa, trường hải quân Etna Jima và những trận chiến đầy vinh quang ở biển Java, Solomon….

Tuần sau:  Chương I & II

Niên thiếu và Trưởng thành

 Tameichi Hara, Đông Kinh 1958

Bản Anh ngữ Japanese Destroyer Captain, Fred Saito & Roger Pineau, 1960

Bản dịch Nguyễn Nhược Nghiễm, Sàigòn 1974

Trần Vũ hiệu đính theo bản dịch Les Torpilleurs du Soleil Levant, René Jouan, 1962

Minh họa từ trang World of Warships