Nguyễn Tú An phóng tác

Từ bữa Duy về đây chơi với Dũng, trời mưa dầm hoài. Hôm nay hai cậu bé đón chào ánh nắng mới với niềm hân hoan của hai kẻ bị giam được phóng thích.

Cả hai kéo nhau ra đồng rồi vui chân lên tới ngọn đồi tít phía bờ sông. Duy chợt kêu lên:

– Đằng kia có ngôi nhà… Dưới lùm cây, đó!

Dũng vỗ tay:

– Trông như căn nhà hoang… Tới coi đi.

Qua con đường mòn, dốc, lác đác còn vũng bùn, rồi vượt hàng rào đổ nát, đầy dây leo lốm đốm hoa, cả hai tới khoảng vườn lưa thưa ít cây ăn trái không người săn sóc. Đó đây, từng đám bụi gai xâm chiếm lớp đất mầu mỡ, bắt đầu vươn cao.

Duy nhìn ngôi nhà, lắc đầu:

– Nóc mất đằng nóc, tường lở đằng tường, cửa đâu hết. Nhà bỏ hoang từ lâu.

– Chắc trước đây bị dội bom không chừng, chiến tranh mà!

Dũng vừa nói vừa bước lên thềm. Kẽ gạch đầy cỏ dại, bên trong, gạch vừa ngổn ngang, nhưng cầu thang và hàng hiên phía sau còn chưa đến nỗi nào… Hai cậu bé leo lên cao, nhìn ra xa: phong cảnh gột rửa sau nhiều trận mưa, trông tươi mát lạ lùng. Duy vui vẻ:

– Bữa nào ta đến đây vẽ tranh chơi.

– Trưa tới, mình lên chỗ này nghỉ ngơi.

– Nhưng ta phải xem trong nhà có ai không chứ?

– Trên nhà chắc không… Nhưng còn dưới hầm…

– Mà có hầm không?

– Biết đâu đấy!

Cả hai lại lần mò trong các căn phòng hoang vắng, tìm tầng hầm dưới nền nhà.

Chợt Duy reo lên, vẫy Dũng lại:

– Đây rồi!

Một cánh cửa lung lay hé mở để lộ mấy bậc thang gần mục dẫn xuống tầng hầm, tối mò.

Dũng kéo bạn:

– Cẩn thận… Biết đằng nào mà lần. Để mai ta đem theo đèn bấm đã. Lỡ có rắn thì mệt!

Duy nắm tay bạn, bóp nhẹ rồi thì thào:

– Tôi nghe tiếng động dưới đó… Ta đi thôi…

Cả hai nhanh chân băng qua vườn. Duy vừa đi vừa ghé tai Dũng:

– Ai ngờ có người ở mới kỳ!

– Chắc là chuột, dưới hầm chứa sẵn chuột!

– Đâu có! Chuột đi giày đinh à? Tôi nghe…

Duy chưa kịp hết câu, một người to lớn đã từ hiên nhà chạy ra:

– Hai thằng lỏi kia!… Đứng lại! Chúng mày lẻn đến đây làm gì?… Nhà tư của người ta mà, ai cho vào?

Duy lễ phép:

– Chào chú!… Chúng tôi đi dạo chơi.

– Dạo chơi trong nhà thiên hạ à?

– Thấy nhà hoang, anh em tôi ghé xem, có phá phách gì đâu.

Người chủ nhà có vẻ dịu:

– Thôi đi đi… Đừng vãng lai tới nữa… Rờ hồn!

– Thì đang đi ra, ông lại gọi “đứng lại!” mà…

Câu này làm ông ta nổi giận bất ngờ:

– Đừng lắm nhời, lần sau lò dò đến đây, tao bẻ cổ!

Y dám làm vậy lắm. Duy nhìn hai cánh tay lông lá mà phát khiếp.

Xem thêm:   10 mét cuối

– Thôi ta về… Chú có mời chúng tôi cũng chẳng lại đâu!

Nhưng lên tới trên đồi, đôi bạn vẫn thấy gã ta đứng trông theo.

Dũng thắc mắc:

– Có gì mà y nóng vậy nhỉ?… Tại sao y không muốn ta tới đó? Y ở dưới hầm đây! Lúc chạy ra, màng nhện còn dính đầy vai áo…

– Chắc dân đầu đường xó chợ quá!

– Đâu có! Quần áo lành lặn, lại có giày đinh mà!

– Con người như thế mà chui rúc trong ngôi nhà hoang, là không lương thiện rồi.

– Có lẽ y ở đó để canh gác.

– Canh đống gạch vụn?… Vô lý.

Dũng nhìn bạn:

– Người ta thuê y canh chừng thì đúng hơn. Anh không thấy có vết xe ô tô ngoài cổng sao?

– Tôi không để ý. Nhưng đã thế mai ta trở lại đó lần nữa.

–oOo–

Buổi chiều, Dũng rủ Duy ra bến sông. Bến lớn, xà lan và tàu chở hàng buông neo dọc kè đá. Một chiếc ô tô bóng loáng từ trong tỉnh phóng ra, dẹp bên lề. Người lái xe ăn mặc sang trọng, dáng điệu lịch sự, ung dung bước xuống. Ông ta đánh diêm châm thuốc hút vẫy người phu khuân vác hỏi vài câu rồi đi vào kho hàng gần đó. Duy thì thào:

– Chắc một thương gia.

– Đúng… Người chủ căn nhà hoang không chừng.

– Sao anh biết?

– Nhìn bánh xe coi… Tôi thấy vết xe này trong sân, lúc chúng ta tới đó.

Ông khách sang trọng từ kho hàng đi ra, châm thuốc hút rồi xe rồ máy, lướt êm như ru. Dũng cúi xuống đất, nhặt que diêm đốt dở, giơ lên:

– Chúng mình đoán đúng… Ban sáng, tôi cũng nhặt được que diêm như vậy trước cửa hầm.

Anh móc trong túi ra, đưa cho Duy coi hai que diêm cháy rồi đều bị bẻ gãy làm đôi. Có lẽ đó là thói quen của người hút thuốc. Duy cười:

– Chắc cậu ghi số xe rồi chứ gì?… Có vẻ trinh thám ghê!

Dũng cũng cười:

– Quên làm sao được! Thấy vết bánh xe, tôi nhớ ngay phải làm thế nào. Cứ nghĩ tới gã canh cửa   đòi vặn cổ chúng mình, tôi điên cả ruột!

–oOo–

Đêm ấy, hai cậu bé sửa soạn đồ nghề: hai chiếc đèn bấm, cuộn dây thừng, con dao, rồi diêm, nến và chiếc ống nhòm. Tất cả được đặt trong chiếc xắc. Duy bàn:

– Ta đem sẵn bánh mì… Nếu trời đẹp, đi chơi tới chiều hãy về. Tôi mới mua cuộn phim đây.

– Đồng ý!

Nhưng cả hai đều biết trước sẽ không đi đâu được trước khi khám phá xong căn hầm bí mật.

–oOo–

Trời nắng ráo. Những vết bùn trên đường đã khô. Tới đỉnh đồi, Dũng kéo bạn:

– Nằm xuống… Nếu y đứng trong sân thế nào cũng trông thấy chúng mình.

Dũng nằm dài sau thân cây, nâng ống nhòm:

– Chẳng thấy ai cả… Ta đi nhanh lên.

Được cái đoạn đường tới căn nhà hoang băng qua khoảng đất nhiều cây cối và bụi gai rậm rạp, nên hai cậu bé nương theo bóng cây tới gần không ai hay. Chợt Dũng níu lấy Duy, chỉ về phía sau nhà: gã đàn ông lực lưỡng bữa qua đang xách thùng đi ra giếng.

Xem thêm:   Cướp

– Y bận việc… Ta lẻn xuống hầm lúc này là nhất!

Nhanh như vượn, hai cậu bé luồn bụi cây, leo qua cửa sổ, tới chỗ cầu thang rồi lẻn xuống hầm. Cả hai đứng đó, nghe ngóng một lát rồi mới bấm đèn, xem xét.

Duy lẩm bẩm:

– Lạy trời cho chúng ta tìm thấy kho tàng của bọn cướp.

Dũng phì cười:

– Có kho rác thì có!… Trông kia.

Hầm thế mà rộng, chia từng ngăn, lủng củng những cột đá với tường xây cuốn. Vài đống vỏ chai, mấy bó rơm mục, dăm chiếc thùng gỗ. Trong một xó có chồng bao tải xếp cao. Mùi ẩm mốc như chẹn lấy họng. Đàn dơi thấy động, vỗ cánh bay tới tấp.

Xem đi xem lại tới ba lần, Dũng vẫn không thấy gì lạ.

– Kỳ há!… Lão thương gia tới đây phải có chuyện gì. Chẳng lẽ y đi du ngoạn như chúng mình, vô lý!

Duy toan lật mấy bó rơm lên, Dũng ngăn lại:

– Thư thả… Làm mất dấu, lỡ chúng biết thì phiền. Nhìn cho kỹ đã, chỗ nào đáng nghi hẳn tìm.

Mấy chiếc thùng trống trơn. Đống rơm mục có vẻ đã lâu không ai đụng tới. Chỉ còn đám vỏ chai với chồng bao tải…

Dũng bảo bạn:

– Chỗ này có vẻ mới xếp lại… Vài chiếc còn rời ra ngoài, ta thử…

Chợt anh im bặt, chỉ tay lên trần. Có tiếng chân bước, rồi tiếng người nói chuyện. Họ đi xuống hầm. Dũng kéo bạn lẩn ra sau chiếc cột lớn:

– Núp vào trong thùng, mau lên.

Cả hai lọt thỏm trong thùng gỗ. Duy toan đậy nắp lại nhưng Dũng không nghe:

– Thùng để lâu, bản lề rỉ rồi. Đậy lại là có tiếng kèn kẹt, họ nghe thấy mất!

Bụi, màng nhện bám vào người, vào cổ mà chẳng ai dám nhúc nhích, đến là cực!

Bây giờ tiếng nói nghe đã rõ. Tiếng lão canh cửa nói với chủ, chắc vậy, vẫn cái giọng làu nhàu:

– Sao ông không cho bốc hàng ngay đi… Để lâu quá rồi.

– Bốc ngay để cảnh sát thương khẩu nắm cổ à? Anh thiệt thòi gì nào?… Tôi trả công hậu hỉ thế còn gì!

– Ông để đây lâu có bữa tôi cũng vào tù mất!

– Đừng lo, chỗ này kín đáo, ai biết!

– Nói vậy chớ!… Bữa qua, hai thằng nhóc ở đâu lẻn tới tính mò xuống hầm…

– Vậy sao?… Chúng xuống chưa?

– Không, đời nào!… Chúng mới tới vườn, tôi tống cổ đi ngay.

– Tốt!… Nhưng lần sau, còn bén mảng lại, tức là chúng nghi ngờ rồi đó. Anh giả vờ mời chúng vào đây, giáng cho mỗi đứa một búa, liệng xác vào chiếc bể cạn phía cuối hầm kia cho êm, nghe không!

– Dạ! Tôi cũng tính vậy.

Xem thêm:   Lịch sử truyền giáo & chữ quốc ngữ (kỳ cuối)

Dũng gai cả thịt. Duy run lên như người sốt. Lúc này hai cậu bé mới biết mình dại dột: Bọn bất lương không ngần ngại thủ tiêu những ai tình cờ biết chuyện làm ăn phi pháp của chúng.

Nhưng lỡ rồi, biết sao!… Cả hai không dám thở mạnh, chờ cho tới lúc nghe bước chân bọn này xa dần, ra phía cửa hầm. Dũng thấy gã canh cửa thở hổn hển như vác gói gì nặng thì phải.

Một lát sau, có tiếng xe hơi rồ máy, Dũng bật dậy phủi quần áo. Duy mặt còn tái mét:

– Ghê quá!… Ta đi thôi…

– Ghê nhưng thú vị, cậu thấy không?… Ta khám phá ra sào huyệt một tổ chức buôn lậu đó!

Căn nhà hoàn toàn hoang vắng. Không chừng gã canh cửa cũng đi theo chủ rồi. Dũng vẫn cẩn thận:

– Ta chia hai ngả, chạy thực nhanh… Gặp nhau trên đồi, nghe không.

Lên tới trên hiên, Dũng lại nhặt được một que diêm gãy đôi, đưa cho bạn xem:

– Đúng hắn, không sai!… Khi đã có thói quen nào đó, thì đi tới đâu cũng để dấu vết lại, thấy không?

–oOo–

Hai người về vừa đúng bữa, Duy bảo Dũng:

– Việc bắt chúng, ta phải dành cho nhà chức trách. Tốt hơn hết là nhờ ba cậu đưa tới ty Cảnh sát…

Công việc đó ông giáo Tư làm một cách sốt sắng. Ông Trưởng ty sau khi nghe chuyện, cho biết thêm:

– Chúng tôi phong phanh nghe tin bọn buôn lậu đem bạc giả tới vùng này mà chưa tìm ra manh mối. Nhờ hai em, ta tóm trọn ổ chúng không khó… Số xe này là của ông Phú Thành, nhà buôn gạo lớn trong tỉnh… Mà sao các em lại nghi cho ông ta?

Dũng lễ phép:

– Thưa cháu có bằng chứng.

– Cháu nói rõ hơn, coi!

– Thưa bác có hộp quẹt?

Ông Trưởng ty đưa cho Dũng hộp quẹt còn mới. Cậu bé đánh diêm, tắt đi, rồi dùng ngón tay trỏ và ngón cái bẻ gãy que diêm thành hình thước thợ, đặt xuống bàn. Đoạn cậu móc túi lấy ra ba que diêm khác cũng gãy cùng một kiểu:

– Cháu thấy mỗi lần ông ta đánh diêm hay có thói quen làm như vậy. Cháu nhặt được một que dưới hầm, một ở thềm nhà và một ngoài bến tàu… Bằng cớ rõ như ban ngày rồi!

Ông Trưởng ty phá lên cười:

– Hay lắm!… Giá như tôi có được người con như cháu, tôi hết sức hãnh diện!

–oOo–

Bọn buôn lậu bị tóm trọn. Trong đống bao tải dưới hầm, cả chục triệu giấy bạc giả và hàng lậu được tìm thấy.

Dũng và Duy được thưởng một số tiền lớn, nhưng Duy bảo bạn:

– Phần thưởng của chúng mình chính là những phút đứng tim trong hầm rượu… Chúng ta trở nên gan dạ, tự tin nhờ những từng trải đó, cậu thấy không?

(Theo M. GREGOR)

Nguyễn Tú An phóng tác, Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970

Trần Vũ đánh máy lại tháng 12-202