PHỎNG VẤN HOÀNG KHỞI PHONG

Hoàng Khởi Phong tên thật Nguyễn Vinh Hiển, sinh năm 1943 tại Hải Dương; cựu học sinh trung học Chu Văn An Sài Gòn 1961; cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà 1963-1975; nguyên trưởng ban giám thị trông coi tù binh Bắc-Việt tại trại giam Phú Quốc, rồi trưởng đồn Quân Cảnh Pleiku. Chức vụ sau cùng: trưởng đồn Quân Cảnh Quy Nhơn. Hoàng Khởi Phong từng bị Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo giá đầu khi coi tù Bắc-Việt ở Phú Quốc.

Nguyễn Mạnh Trinh thực hiện

Kỳ 2

Nguyễn Mạnh Trinh: Chuyện 30-4-75 có phải là chuyện dài Nhân Dân Tự Vệ không? Nếu có người tiếp tục viết về đề tài ấy, anh nghĩ sẽ có sự nhàm chán của độc giả không? (Xin loại trừ các cuốn hồi ký viết theo đơn đặt hàng, hay những lời chối quanh quẩn) 

Hoàng Khởi Phong: Chuyện 30-4-75? Nếu chúng ta còn một chút liêm sỉ, thì chúng ta phải giở trang sử u buồn này một cách nghiêm túc. Tôi viết cuốn Ngày N+.. .., không phải để bào chữa cho những hành vi của tôi, mà để nói lên những gì liên quan đến 45 ngày cuối cùng của tôi tại miền Nam, và tôi cũng tin rằng có nhiều người khác viết hồi ký về giai đoạn này, với một trái tim thắt lại.
Về phía những người đọc, sau 15, 20 năm ổn định nơi xứ người, có nhiều người không muốn quay đầu nhìn lại, mà muốn xóa hẳn cái ký ức của giai đoạn u buồn tang tóc này. Tôi thông cảm với họ, đôi khi người ta phải quên đi để mà sống thanh thản. Tôi cũng biết có một số hồi ký được viết với thiên kiến lệch lạc, đổ tội quanh quẩn. Làm thế nào được, đến giờ này vẫn còn nhiều người ca tụng ông Thiệu là danh tướng, ông Khiêm, ông Viên là danh tướng. Ông Kỳ thì xui hơn, không được ai ca tụng là danh tướng, chỉ vì ông đã hết tiền, đã một lần khai «bankruptcy».

Nhưng ông Kỳ đích thân viết một cuốn hồi ký cho ông, nên không cần những người khác viết hộ. Giờ này mà viết ca tụng các ông Thiệu, Khiêm, Viên, Toàn, Quang … là danh tướng thì chẳng những hết thuốc chữa, mà còn là một hành vi phỉ nhổ vào những nấm mồ hoang vô chủ của những người lính vô danh, đã nằm xuống trong khi bảo vệ các phần đất càng ngày càng thu hẹp lại, cũng như những người dân chết oan trong thời điểm tháng 4-75.

Tôi không nghĩ là có sự nhàm chán của độc giả với những cuốn sách được viết bằng sự chân thành. Những ai muốn quên thì đã không đọc, có gí vào tận mắt họ cũng quay đi. Còn những độc giả muốn nhìn cho rõ sự thật, họ sẽ tìm đọc. Lấy ví dụ cuốn sách của anh Cao Xuân Huy, không đọc nó thì thôi, đã «bặp» được vài trang thì sẽ phải đi cho kỳ hết cuốn sách.

Đôi lúc tôi có cảm giác hình như thảm kịch đến từ phía đối phương ít hơn thảm kịch đến từ phía chúng ta đối với chúng ta. Ðừng bắt Nhân Dân Tự Vệ phải xấu hổ về sự thất bại của cả miền Nam. Nhân Dân Tự Vệ đâu có tầm vóc, kích thước lớn quá vậy?

Nguyễn Mạnh Trinh: Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có nhận xét anh là người đi chênh vênh giữa suy tưởng và hành động, giữa lý thuyết và thực tế, mong tạo dựng một guồng máy khác với guồng máy hiện nay và khao khát hành động.

Hoàng Khởi Phong: Anh Nguyễn Mộng Giác và tôi giao thiệp với nhau qua nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, đến nay cũng đã trên 20 năm. Anh Giác có một lúc nào đó sợ tôi sao lãng việc viết và sa chân vào con đường hoạt động chính trị. Ngày đó chúng tôi còn trẻ, mới 25, 26 tuổi đầu và mơ đội đá vá trời. Tôi thấy chính quyền miền Nam mỗi lúc mỗi xa chính nghĩa dân tộc, do đó trong thâm tâm, tôi mong có một sự thay đổi lớn. Nếu có sự tiếc nuối nào thì tôi tiếc là mình chưa bao giờ đích thực dấn thân. Nơi đây, bây giờ (1995) việc dấn thân trong lãnh vực chính trị đôi lúc làm cho tôi … buồn cười. Tôi biết có những nhân vật cùng một lúc có mặt trong 5, 6 đoàn thể. Chỉ cần có mặt thôi, vì nhiều khi cuối tuần buồn chẳng biết đi đâu. Nhiều người lớn tuổi sợ rằng đời đã quên mình, nên hốt hoảng hành động, nói năng như người lên đồng. Nơi đây có những trò «chích máu ăn thề». Máu thì chích được một giọt, thề thì ăn toàn cao lương mỹ vị. Bây giờ tôi hết còn muốn dấn thân, nhưng những suy nghĩ thì không thay đổi được.

Nguyễn Mạnh Trinh: Anh có để ý đến những sinh hoạt chính trị bây giờ? Nếu có, anh nghĩ sao về những điều sẽ làm thay đổi thời thế hôm nay? 

Hoàng Khởi Phong: Chúng ta là những kẻ đã chạy trốn tổ quốc, bởi không thể chịu nổi cái khung cảnh mà hơn 2000 năm trước Khổng Tử gọi là: «hà chính mãnh ư hổ». Chúng ta chọn lựa tự do, cho dù tự do chỉ là những ý niệm vô cùng trừu tượng. Nói một cách khác: Chúng ta phải bỏ nơi phải bỏ, và tới nơi phải tới. Chỗ phải bỏ mới gần là địa ngục, chỗ phải tới thì không hẳn là thiên đường. Do đó mà có một số đông chúng ta sống ở đây, mà hồn thì ở nơi khác. Những người nào đã tìm thấy thiên đường nơi đây, thì không còn gì phải bàn. Còn những ai đột nhiên một buổi sáng tỉnh dậy, thấy hoa đào nở ở nơi góc vườn mà lòng quặn lại, nhớ tới những cánh mai vàng của chốn cũ; nhìn những cơn mưa rào gõ vào kính xe bỗng thấy ẩn hiện những đứa trẻ tắm mưa, cởi truồng chạy luông tuồng trong con ngõ hẹp; nửa khuya thức giấc chập chờn như nghe tiếng rao quà ban đêm, và mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng Tư, không muốn tham gia bất cứ một cuộc hội họp nào, cứ lủi thủi trong căn phòng hẹp, hay leo lên xe tìm đến một chỗ vắng người; những người đó không thể không nghĩ đến chính trị.

Xem thêm:   Miệng Nhà Quan ngày 9 tháng 1 năm 2025

Nhưng bước vào vấn đề này, chúng ta bước vào một mớ chỉ rối nùi. Chưa bao giờ chúng ta có nhiều nhân sĩ cộng đồng như thời điểm hiện tại. Những nhân sĩ này mặc đồ lớn, xuất hiện ở chốn quan, hôn, tang, tế và chờ dịp lên micro phát biểu. Bây giờ chúng ta có tới 12 đài phát thanh, tôi lắng nghe nhiều lời phát biểu trong các cuộc hội luận chính trị trên làn sóng phát thanh, mà lỗ tai lùng bùng cả ngày. Tôi phục những vị phát biểu đầu Ngô mình Sở này ở chỗ họ là những người … can đảm. Có nhiều lần tôi được thấy những lá cờ Việt Nam Cộng Hoà được may lên áo dài, cà vạt. Một lần trong hội chợ Tết tổ chức tại Pomona, tôi thấy một phụ nữ Mỹ cao, to, béo, trắng, mặc áo dài mầu vàng, ba sọc đỏ chạy vắt chéo ngang ngực, và tay ôm một con chó nhỏ xíu đi ve vẩy. Hình ảnh này trông vô cùng giễu cợt, lạ một điều là những nhân sĩ cộng đồng tổ chức hội chợ này không một ai cảm thấy khó chịu, và dường như họ còn hãnh diện đi bên cạnh người phụ nữ Mỹ phốp pháp ôm con chó nhỏ ấy, cười tươi như hoa những khi được chụp hình. Có một ông ca sĩ thuộc vào hàng lính kiểng ngày xưa, bây giờ đã trở thành thi sĩ, mỗi khi đi biểu tình còn sơn mầu cờ lên mặt. Tôi đã nhiều lần đưa tay lên vành mũ, lên chỗ ngang chân mày, ngước nhìn lá cờ đó bay lượn giữa trời xanh. Nó đã phủ lên quan tài của cả triệu người trong cuộc chiến. Nếu thật sự lá cờ đó ngự trị trong lòng chúng ta, thì không cần phải may lên áo, cà vạt, vẽ lên mặt lên trán, mà hãy ghi thật sâu trong tim, trong óc. Tôi nghe các bạn sang sau kể lại: Nhiều sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong thời gian đi tù cải tạo, thà bị biệt giam, bỏ đói vài ngày, chứ không chịu lấy cờ may quần đùi. Tập quán của người Mỹ cho phép dùng quốc kỳ để may xì líp, nhưng với chúng ta thì không nên làm như thế.

Tôi chưa bao giờ thấy nhiều lãnh tụ như hiện nay, có cảm giác như mỗi ngày gặp hàng trăm lãnh tụ, nhiều như thế e rằng không phải của thật. Lịch sử đã một thời có 12 sứ quân, bây giờ chúng ta có trăm, ngàn, vạn, mớ sứ quân. Chỉ tiếc rằng các sứ quân hôm nay đã hiếm tài, lại ít đức (Tôi nói có bằng chứng. Anh cứ chỉ cho tôi một sứ quân, tôi sẽ có cả chục bằng cớ của các sứ quân khác hạch tội). Trong chính trị chúng ta đang lạm phát lãnh tụ, thì cũng hệt như trong văn chương chúng ta đang ở vào triều đại thổi sáo bầy. Hãy lấy một con số khiêm nhường, trong hàng trăm lãnh tụ hiện nay đang bí bí, mật mật, đang hô hào, đang diễn thuyết, có bao nhiêu người thực sự làm công việc chính họ đang hô hào? Khi đặt nghi vấn như vậy, tôi biết rất rõ có nhiều người chống cộng vì sợ người đời quên mất cái địa vị cũ của mình. Có nhiều người chống cộng vì business, và thiếu gì người vì cái danh hão để được lòng người đẹp. Lấy ví dụ cụ thể: Vấn đề bang giao giữa Mỹ và Việt Nam. Việc này ảnh hưởng đến tất cả mọi người, trong nước cũng như ngoài nước, chống cộng hay không chống cộng, hoạt động chính trị hay không hoạt động chính trị. Nếu chúng ta chống việc bang giao, thì tại sao chống? Nếu cổ võ thì tại sao cổ võ? Những dấu hiệu của việc bang giao đã có từ nhiều nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ, thế mà ngày Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, tôi đã nghe một lãnh tụ cộng đồng cho biết là ông ta bị «sốc». Không thể bị sốc trong khi hoạt động chính trị, phải tỉnh táo và chủ động trong việc làm. Không thể hoạt động chính trị trong cung cách hết sức thụ động, chờ coi người Mỹ làm gì. Nhiều người hoạt động chính trị còn giữ được nguyên vẹn tính nô lệ, trông chờ người Mỹ bật đèn xanh hay đỏ, rồi mới án binh bất động hay xắn tay áo vào việc. Ðối với cộng sản cũng chờ coi họ làm gì rồi mới có phản ứng. Tôi không đặt vấn đề chống hay thuận trong việc bang giao. Tôi đặt vấn đề nếu Hoa Kỳ và Việt Nam bang giao thì phải làm gì? Các đoàn thể và đảng phái chính trị hễ đăng đàn thuyết pháp thì luôn luôn kêu gọi đoàn kết, thế có nghĩa là chúng ta đang chia rẽ cùng cực. Hãy mở các tờ báo, lắng nghe các đài phát thanh để ước lượng được sự chia rẽ trầm trọng đến như thế nào.

Xem thêm:   Miệng Nhà Quan ngày 16 tháng 1 năm 2025

Nguyễn Mạnh Trinh: Viết với anh có phải là một nhu cầu cần thiết? Hay chỉ là một việc làm cợt đùa cho qua ngày ở xứ người? 

Hoàng Khởi Phong: Thú thật với anh, chính tôi cũng không biết rõ điều này. Có lúc tôi thấy mình đáng bị «bỏ» vào thùng cất kỹ, do đó trong vòng 10 năm liền tôi không viết một chữ nào. Thời gian làm nhà xuất bản Bố Cái, tôi nhìn thấy sách của mình bị bày bán tại những cái kệ trong các chợ thực phẩm Việt Nam, cạnh mắm tôm, nước mắm. Có thể với một số người nào đó, văn chương của tôi làm mắm thêm nặng mùi. Cho dù có như thế thật tôi cũng xấu hổ và thu sách về. Văn chương tôi có dở, tôi cũng không nỡ nhìn thấy nó nằm đó. Dường như tại đây, có nhiều người khéo làm ăn, tài xoay trở, kiếm được rất nhiều tiền, và dùng tiền để mua một cái danh hão. Danh hão nào dễ mua cho bằng cái danh «nhà văn, nhà thơ». Viết xem chừng cũng dễ, có tiền in sách ra, mời bạn bè đến ra mắt, có ăn, có dạ vũ, khéo khích động thì lại thu vốn về ngay trong lần ra mắt, rồi có phóng sự đăng báo, hàng vài chục tấm hình chi chít mấy trang báo, ai nấy đều ăn mặc như tài tử xi nê. Kế đó lại được vài nhà văn «cổ thụ» chuyên về khen, viết bài tường thuật. Tôi đã thấy một cuốn sách hơn hai trăm trang, có tới 40 người viết lời khen, in ngay trong cuốn sách, được các nhà văn lớn, nhỏ ấn chứng văn tài, ví với Nguyễn Du, Ðoàn Thị Ðiểm, Bà Huyện Thanh Quan … ai ai cũng được chụp hình bên cạnh lời khen của mình, thành thử cuốn sách giống như một sưu tập hình ảnh nhiều hơn là một tác phẩm văn chương. Lại thêm mấy ông «đàn anh văn nghệ», ông nào khó tính và tưởng rằng mình ôm được cái «chiếu văn học» khi di tản, đuổi các người viết mới như đuổi tà. Có ông lại quá dễ tính, mang «chiếu văn học» ra, «ấn» mọi người ngồi xuống. Mấy ông dễ tính này cứ sờ vào ai là người đó thành nhà văn, nhà thơ ráo trọi. Việc lạm phát các nhà văn, nhà thơ làm cho văn chương dễ bị phá sản. Ðó là lý do có một thời gian tôi thấy mình không nên léo hánh tới chữ nghĩa. Tôi không bao giờ có ý định bỡn cợt với chữ nghĩa, nhưng tôi cũng không cho việc viết là một nhu cầu tối cần thiết. Ðiều quan trọng là mình viết cái gì, và quan trọng hơn nữa là phải viết cho tới, cũng như phải giữ được cái liêm sỉ tối thiểu của người cầm bút. Cái liêm sỉ tối thiểu này hạn hẹp trong việc cầm bút mà thôi. Tôi không đòi hỏi nhà văn phải là một nhà đạo đức, nhưng tôi đòi hỏi nhà văn không thể vì một mối lợi mà bẻ quẹo ngòi bút của mình, càng không thể vì phe nhóm, mà chụp mũ người này, ca tụng người khác.

Nguyễn Mạnh Trinh: Anh có luôn luôn suy nghĩ, bây giờ chúng ta phải cầm bút như thế nào? 

Hoàng Khởi Phong: Nếu một nhà tu lên đường bằng niềm tin, thì nhà văn phải lên đường lòng chân thật. Vấn đề của những người cầm bút lưu vong chúng ta lại khác hẳn. Thực tế thì làm nhà văn quả có «dễ ẹc», nên nơi đây chúng ta có nhiều loại nhà văn. Ở đây không một ai vì viết văn mà bị dọa bỏ tù, cúp hộ khẩu, đuổi sở, công an áo vàng nhòm ngó, con cái không bị đuổi trường. Nhưng nếu không thích viết văn, thì cũng không một ai gí súng vào màng tang bắt phải viết. Chúng ta có những nhà văn chuyên về quảng cáo, nhà văn chuyên về đánh đấm, nhà văn chuyên về thời trang, chuyên về điện ảnh, thẩm mỹ và dĩ nhiên rất nhiều nhà văn chống cộng. Một trong những cách hữu hiệu nhất để chống lại bạo quyền là hãy làm tốt những gì mình phải làm, không nhất thiết là nhà văn, ai nấy đều làm đúng công việc của mình, tạo thành một cộng đồng có sức mạnh cụ thể, chứ không phải một cộng đồng cãi nhau ngày này sang tháng khác, năm này sang năm nọ như hiện nay.

Nguyễn Mạnh Trinh: Vị nghệ thuật? Vị nhân sinh? Dấn thân? Viễn mơ? Anh có lựa chọn nào trong khi phác họa chủ đích cho bài viết của mình? 

Xem thêm:   Bán vé số

Hoàng Khởi Phong: Vị nghệ thuật cũng được, vị nhân sinh cũng được, mà vị tiền cũng chẳng sao. Dấn thân cũng thế, viễn mơ cũng vậy. Khi viết phải biết mình định viết cái gì, định viết cho ai và quan trọng nhất là phải viết cho hay, cho tới, cho đạt. Nếu viết không tới, không đạt thì vị cái gì, viễn … thân hay dấn … mơ cũng vất, cũng vô ích. Nên dành thì giờ làm nghề khác có lợi hơn là viết văn, vừa làm mình hao hụt thì giờ và tiền bạc, vừa làm người đọc cũng hao hụt y như … người viết vậy.

Nguyễn Mạnh Trinh: Lúc này, qua 30 năm sinh hoạt văn chương của anh, anh có vẻ viết hăng nhất. Động lực nào đã thúc đẩy? Vì cần thiết của thời thế? Vì yêu văn chương hơn sau một thời gian chán nản? Vì nhìn thấy được những tia nắng mới?

Hoàng Khởi Phong: Tôi không viết trong 10 năm liền, mỗi lần nhìn thấy các bạn văn có sách mới, tôi đều thấy thèn thẹn. Người xưa có câu: «Sĩ phu 3 ngày không đọc sách, soi gương thấy mặt mũi khó coi». Là một nhà văn mà 10 năm liền không viết, soi gương không còn là khó coi nữa, mà là tởm lắm, nếu vẫn cứ tìm mọi cách chường cái mặt nhà văn không viết của mình trong mọi chốn đông người. Ðúng như thế, hiện nay tôi có nhu cầu viết, tôi đang sống bằng nghề cầm bút, với một số lương tươm tất cho một mình tôi. Tôi không có nhu cầu nhiều, nhà không có, xe cũ không bảo hiểm, không ăn nhậu, không nhảy đầm, không bồ bịch, quả tình tôi đang sung sướng với một số lương khiêm tốn so với những người làm sở Mỹ.

Còn nhìn thấy tia nắng mới? Không. Hiện nay chúng ta đang ở trong một con đường hầm tối như bưng. Chính trị tối theo kiểu chính trị, văn học tối theo kiểu văn học, và ngay cả thương mại, cứ nghe đài, xem cách quảng cáo của các thương gia Việt Nam là thấy ngay về thương mại chúng ta cũng không sáng sủa gì. Bây giờ hành vi viết của tôi cứ cho là đang lần mò trong bóng tối, đi được bước nào hay bước ấy, lết tới trước, may ra có một ngày nhìn được ánh sáng nơi miệng hầm. Trên 50 thì khó ra khỏi căn hầm này, nhưng có thể nhìn thấy được một chút ánh sáng le lói cuối đường hầm.

Nguyễn Mạnh Trinh: Thói quen của anh khi viết? Nơi chốn, thời gian, điều kiện thích hợp để viết?

Hoàng Khởi Phong: Tôi làm việc thợ tiện, ca đêm, để cho không buồn ngủ, mỗi khi bấm cái nút cho máy chạy, tôi ngồi xuống và nghĩ ngợi xa gần, riết rồi tiếng máy không còn ứng được vào trí tôi.

Cuốn Ngày N+.. .. được viết trong xưởng tiện, cuốn Thư Không Người Nhận được viết trong lúc bán hàng chợ trời, không có khách. Phần đầu của Người Trăm Năm Cũ được suy nghĩ và viết trong những lúc lang thang trên đường, suốt 2 năm trời không có một địa chỉ nhất định.

Trước kia viết bằng bút, tôi có thể viết tại bất cứ chỗ nào, bàn ăn, ghế đá công viên, trên tay lái xe, nằm dài trong sa-lông phòng khách, ghi chép cả trong phòng vệ sinh. Bây giờ viết bằng máy vi tính, nên phải ngồi vào bàn cẩn thận hơn, thế thôi. Tôi không kiểu cách phải có phòng yên tĩnh, vì trong khoảng 15 năm nay tôi không bao giờ có một căn phòng cho riêng mình.

Nguyễn Mạnh Trinh: Anh có ước mơ nào cho tác phẩm của mình? 

Hoàng Khởi Phong: Mơ ước? Có chứ. Nhưng không mơ ước cho một mình tôi. khác. Bối cảnh chiến tranh Việt Nam có dư kích thước cho một tác phẩm lớn, không một chút mặc cảm nhược tiểu so với văn học của toàn thế giới.

Chính trị, quân sự, kinh tế, kỹ thuật mới có vấn đề cường nhược, chứ còn văn học thì không có đại cường và nhược tiểu. Ðiều quan trọng là nhà văn phải làm việc nghiêm túc hơn là mê mải lo chức chủ tịch các trung tâm văn bút. Nay chiến tranh tàn đã được 20 năm, cái dòng cuồng lưu cuồn cuộn máu đào đó giờ đây đã lắng, nước tuy chưa hẳn đã không còn tanh nồng, nhưng người viết đã có đủ thời gian chiêm nghiệm lại mình, nghĩ về đời sống, về tương lai, nghĩ về tác phẩm. Nhất là những nhà văn tại hải ngoại có nhiều điều kiện, đủ tài liệu cũng như phương tiện để sửa soạn cho một tác phẩm có kích thước, có chất lượng. Tôi tin vào những nhà văn trẻ hơn tôi, không bị chiến tranh o ép, không bị những thiên kiến của quá khứ chi phối, được đào tạo kỹ lưỡng, được hấp thụ một nền giáo dục cởi mở, họ sẽ đi xa hơn thế hệ chúng tôi. Trong thế kỷ này có thể văn học Việt Nam chưa chắc đã dương danh được với văn học toàn thế giới, nhưng 20 năm nữa, phải biết đâu chừng 20 năm nữa …

NMT thực hiện, 1989