Bút danh Andrew Q. Lâm, sinh 1964 Lâm Quang Dũng là con trai của Trung tướng Lâm Quang Thi, từng là chỉ huy trưởng Pháo binh VNCH rồi giám đốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt trước khi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I.

Gỗ Mun và Hồn Ma Bóng Quế là truyện ma nhưng không rơi vào sự tầm thường của chuyện ma quỷ làm bật lên cảnh sống của một gia đình cấp tướng miền Nam. Ưu điểm ở đây, nằm trong tâm tình ngây thơ chân thật của tác giả hãy còn thiếu nhi, với khả năng quan sát của nhà văn tương lai. Khá tỉ mỉ và chi tiết, trong một văn phong đẹp tự nhiên.

Bản dịch của Mai Kim Ngọc tái tạo thành công ngôn ngữ trước 75.

[Trần Vũ]

Kỳ 2

Mai Kim Ngọc dịch

Hôm sau, hai vợ chồng con trở lại sớm với ít trái cây cúng cô khi Bà chưa về. Con nghĩ có biết chắc Bà cũng không quở trách con. Rồi mấy đêm sau, thằng Hiển này đã tình nguyện gác luôn cả phiên con, nó bảo cô Ngà nay đã được cúng giỗ rồi chắc sẽ không phiền hà gì nó. Nhưng cẩn tắc vô ưu, Bà tin con đi, con không quên căn dặn thằng Hiển mỗi tối phải thắp cho cô nén nhang…”

Chuyện chú Lâu đến đây là hết. Măng gật đầu như ghi nhận chú đã kể xong, và không thấy Măng bảo gì thêm chú quay mặt lại đằng trước. Mùi rượu đế mới đầu thoang thoảng đã tăng theo câu chuyện của chú, bây giờ nghe nồng nặc. Khó chịu, tôi quay sang anh Tuấn ngồi bên phải tôi. Anh đang thổi vào kính xe, biến cửa sổ xe thành một tấm bảng phủ kín hơi nước. Ngón tay anh vẽ những hình tàu bay xe tăng lên mặt kính. Nét vẽ của anh làm kính trong trở lại, bày ra cảnh vật sũng nước bên ngoài với cỏ cây xanh rờn và bầu trời đục xám đang vùn vụt chạy về phía đuôi xe, linh động hóa những hình tượng anh vẽ trong khi chúng sáng lên với màu sắc hiền dịu của tạo vật.

Ngà tuy là chị tôi, nhưng tôi chưa bao giờ biết mặt. Chị chết non vì chứng đau não, một năm trước khi tôi sanh. Vì chị trắng trẻo nên Măng đặt tên chị là Ngà. Khi đẻ ra, tóc chị dài và mượt – Măng cả quyết là nếu sống chị tôi sẽ cao và đẹp lắm. Chị Ngà rất ngoan, Măng vẫn thường nói. Chị không bao giờ khóc nhè hay vòi vĩnh như tôi. Mỗi khi Măng nói vậy, tôi làm bộ nhăn nhó giậm chân cho đến khi Măng phải tức cười và ôm tôi vào lòng, dỗ rằng tôi là đứa con yêu nhất của Măng.

Mỗi năm vào ngày giỗ chị Ngà, Măng thường sắm sửa quần áo, đồ chơi, tiền giấy, tất nhiên là đồ mã, để đốt xuống âm phủ cho chị cũng được thoải mái như mọi người trong nhà. Chúng tôi không phải bao giờ cũng sung túc, Măng vẫn bảo: thuở ấy gia đình tôi nghèo – ba tôi mới là trung tá – và chúng tôi không có tiền, không có tài xế, không có xe hơi. Khi sanh chị, Măng phải một mình đi xích lô vào nhà bảo sanh. Khi chị mất, Măng mua một miếng ngà cho khắc tên chị để cúng. Măng thường nói, chị đã không chết nếu hồi ấy chúng tôi khá giả và quen biết lớn để có thể đưa chị sang Âu Châu điều trị. Nhưng ba tôi lại bảo là thật ra không có cách gì cứu chị, chính các bác sĩ cũng không biết làm sao trị liệu căn bệnh não hiểm nghèo và hiếm thấy của chị.

Khi tôi lên một, ba tôi được thăng Thiếu tướng. Cảnh sống của chúng tôi khá lên khi ba tôi được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng tại Sa Ðéc. Ít năm sau, ông thăng lên Trung tướng và được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Ðà Lạt. Chúng tôi được cấp một biệt thự kiểu Pháp, mấy con ngựa và một chiếc trực thăng. Nhưng Măng không bao giờ quên chị tôi. Dọn lên Ðà Lạt, vật đầu tiên Măng gói để mang theo là bàn thờ chị tôi, mặc dầu ba tôi phản đối. Ba tôi nghĩ không nên bám víu lấy người chết. Ông bảo tốt nhất là gởi bàn thờ chị tôi vào một tu viện yên tĩnh, vì chúng tôi dời nhà kể như thường xuyên. “Cho con nó yên nghỉ” ba tôi có khi quát lên, nhưng Măng không bao giờ nhượng bộ. Ba Măng cãi nhau liên miên về việc này, nhưng sau cùng bao giờ Măng cũng thắng.

Xem thêm:   Hang gấu

Bây giờ sự việc đã như thế, thật là dễ sợ khi nghĩ hồn ma chị tôi vẫn lẩn quất trong tòa biệt thự, đòi Măng săn sóc như anh em chúng tôi còn sống. Tôi nhắm mắt tưởng tượng chị vẫn ở trên mặt lò sưởi trong cái bàn thờ nhỏ bằng gỗ mun đóng theo kiểu một ngôi chùa tí hon. Chiếc bàn thờ có mái cong với đôi cột bé tí chạm trổ rồng phượng. Giữa hai cột là chiếc bát hương nhỏ đầy chân nhang và tro nhang màu xám. Nhưng trong nội thất linh thiêng của bàn thờ tất cả chỉ có tấm bài vị bằng ngà của chị, đặt đứng như một tấm bia mộ nhỏ. Phải chăng tấm ngà bé này là hiện thân của hồn ma của chị?

“Còn chú, chú Hiển, chú có thấy gì lạ không?” Tiếng Măng làm vỡ bầu không khí yên lặng.

“Bẩm Bà, không”, chú Hiển trả lời mắt vẫn nhìn con lộ trước mặt. Trong tấm gương chiếu hậu, nét mặt chú bình thản như không.

“Chú muốn nói con gái tôi không nắm chân chú kéo hay nhát chú như nhát chú Lâu?” Măng hỏi gặng.

“Bẩm Bà không. Chắc con cứng bóng vía nên ma cỏ không quấy nhiễu”.

“Vậy sao?” Măng nói.

Chú Lâu quay lại xen vào câu chuyện. “Nhưng bẩm Bà, con thấy cô nhà. Chính mắt con trông thấy cô nhà”. Chú lấy ngón tay tự chỉ vào mặt.

“Tôi biết” Măng gật đầu. “Nhưng ai hỏi chú mà chú nói.”

Măng nói tiếp:

“Chú Hiển, chú không có gì để trình lại với tôi?”

“Bẩm Bà không. Chuyện ma cỏ thì lại càng không”. Gọn gàng vượt qua chiếc xe nhà binh chạy chậm đằng trước, chú móc túi lấy ra phong thư. “Tuy nhiên ông Tướng có dặn con trình với Bà là Ông đi Nha Trang họp mấy ngày nữa mới về. Ông dặn con trao Bà lá thư này…”

“Ủa?” Măng hỏi chú Hiển, tay Măng cầm phong thư mà không mở ra. Măng không bao giờ đọc thư ba tôi trước mặt các con.

“Chồng tôi có biết gì về chuyện… ma hiện hồn này không?”

“Bẩm Bà không.”

“Cũng tốt thôi” Măng như tư lự. “Nhưng tại sao chú lại gác thay cho chú Lâu, thay vì ngủ dưới trại?”

“Bẩm Bà tại vì”, chú Hiển dõng dạc, “trại đông, trống gió mà lại ồn quá. Mà cũng tại vì đám sóc đĩa. Con không thể nào ngủ được khi thằng cha Lâu này ngồi sóc đĩa xướng số trúng bằng mấy câu vè của nó.”

“Vậy sao?” Măng vắn tắt, nhưng tôi cười lăn cười bò. Anh Tuấn vỗ đùi và chị Ngọc nói “Xấu hổ, xấu hổ nhé” trong khi chú Lâu trên ghế trên co mình lại như muốn độn thổ. Quả thật chú Lâu rất ồn và rất sính đọc vè khi đánh sóc đĩa. Chú sính vè trong mọi chuyện, nhưng đặc biệt nhất là với sóc đĩa. Chú có thể cất giọng nghêu ngao đọc vè của chú, tựa hồ như mấy con sóc đĩa là những nhân vật mấy tuồng cải lương mà chú đã thuộc lòng.

Lát sau yên lặng lạnh giá lại bao trùm lấy chúng tôi như một chiếc màn vải đục. Trong tay Măng, tôi nghe tay tôi lạnh ngắt như không còn hột máu. Mưa đã nhẹ hạt, máy xe rầm rì, bánh xe lúc lúc chồm qua những ổ gà đầy nước, và tim tôi ghi nhận từng cái dằn của đường. Xe ngang qua hồ Xuân Hương, tôi thấy sương mù lãng đãng như ve vuốt mặt hồ. Ðã xế chiều, bầu trời ảm đạm, và mặt hồ phản chiếu lại một lần nữa cái ảm đạm ấy…

Qua hai cây cần gạt nước, tôi thấy cảnh vật di động với những biệt thự ẩn mình sau những hàng rào gỗ và những rặng thông cao. Xe lên dốc, hai bên đường một vài bàn thờ nhỏ trang trí bằng những vòng hoa hay bó hoa màu sắc lòe loẹt. Dân địa phương đã dựng những bàn thờ này cho linh hồn các nạn nhân xe hơi hay xe gắn máy trên đường trơn dốc này. Chú Lâu có lần giảng cho tôi là nếu người chết được tưởng nhớ tới, vong hồn họ không trở về gây thêm tai nạn cho người sống.

Xem thêm:   Đà Lạt & phượng tím

Chúng tôi sắp tới nhà. Mái đỏ của ngôi biệt thự hiện ra sau lùm cây xanh; tiếp theo là mấy cánh cửa chớp bằng gỗ che cửa sổ và sân thượng trên lầu hai; rồi đến thửa vườn với chiếc xích đu hiện ra bên phải. Xe quẹo gắt vào chiếc cổng rào kẽm gai, và một chú lính vui vẻ từ trạm canh nhảy ra, súng và đạn đeo lủng lẳng sau lưng. Anh ta kéo mạnh cổng rồi chào chúng tôi khi xe chạy qua. Chị Ngọc vẫy tay, và Măng gật đầu chào lại. Trên sân lác đác trống vắng, hơi sương trắng cuộn vòng bốc lên như chào đón chúng tôi. Chiếc xe Plymouth chạy tới bên mấy bậc tam cấp phủ rêu rồi dừng lại.

Măng lấy tờ giấy bạc với tới đằng trước vỗ khẽ vào vai chú gia nhân. “Chú Lâu” Măng nói “Chú làm ơn ra chợ mua cho tôi ít hoa quả, đồ mã, và hương đèn. Chút đỉnh để giỗ con gái tôi… dù là giỗ muộn. Và cám ơn chú đã giỗ em hôm trước…”.

“Bẩm Bà vâng” chú Lâu hăng hái thi hành lệnh Măng.

Không biết ai đã quên đóng cửa phòng học, hơi lạnh và ẩm của mưa đã lạm vào từ bao giờ. Có mùi gỗ ướt, và khi Măng đóng cửa sổ lại, tôi nghe như một phần của bầu trời sũng nước đã bị giam lại bên trong. Tôi nhìn vào chiếc bàn thờ trên mặt lò sưởi. Bàn thờ vẫn đấy, rờn rợn, trống, sâu, và tối. Hai con rồng vảy xà cừ lóng lánh, hàm há lớn như sẵn sàng táp vào kẻ bất tín. Nhìn bàn thờ, tôi bao giờ cũng cảm thấy lạnh lẽo. Măng thắp mấy nén nhang, và khói nhang cuốn vòng bay lên trần nhà đã ám khói từ lâu. Mùi nhang hăng hắc lẫn với mùi thơm của gỗ lẩn quất nặng nề trong bầu không khí lạnh và ứ hơi nước.

Khi tôi đứng sau Măng nghe Măng khấn, anh Tuấn và chị Ngọc kéo nhau ra bên bảng đen, bộ điệu ranh mãnh tinh nghịch. Hai người vét bụi phấn trong khe bảng bôi lên mặt. Anh chị ra hiệu rủ tôi nhập cuộc, nhưng tôi lắc đầu. Tôi cảm thấy phải đứng bên Măng mới được an toàn. Anh chị tôi đang chờ chú Lâu tới để phục kích, tiếng chân chú bây giờ nghe vang lại từ hành lang.

Lúc chú xách rổ mây đầy hoa quả đồ chơi bằng giấy và quần áo mã bước vào, anh chị tôi nhảy ra hét lớn, mặt mày bôi đầy phấn hai tay giơ lên quơ cào. Như bị điện giật, chú thất thanh hãi hùng nhảy dội ra đằng sau, mắt chú như văng khỏi tròng. Một trái xoài rơi bịch xuống đất.

“Thôi ngay lập tức!” Măng nổi nóng quay lại. Trong mắt Măng tôi thấy có điềm gì bất an, báo hiệu những bất thường đang rình rập xảy ra. Khói nhang vương vất sau lưng Măng. “Có đi rửa mặt đi còn giỗ chị. Tất cả mấy đứa!”

“Thưa Măng vâng” anh Tuấn và chị Ngọc lí nhí, cúi đầu như biết lỗi. Bỏ lại Măng với chiếc bàn thờ gỗ mun, tôi theo chân anh chị. Ngang qua chú Lâu, tôi thấy chú đang cúi nhặt quả xoài miệng lẩm nhẩm than thở về quả tim yếu của chú.

Khi chúng tôi trở lại, hai ngọn nến đang bập bùng cháy trên hai cây đèn hoa sen đặt hai bên bàn thờ. Bóng tối và ánh sáng chập chờn trên những đường chạm cong của gỗ mun. Bên ngoài trời đã sẩm tối, một ánh sáng hồng dịu sáng lên nơi cửa sổ. Măng mặc áo dài trắng và chú Lâu giúp Măng sửa soạn vụ giỗ trễ. Trên mặt bàn trải khăn trắng, mấy trái xoài và vài bông sen bày trong chiếc bát sứ lớn. Anh em chúng tôi, tắm rửa sạch sẽ, đầu tóc chải ngay ngắn, đã thắng bộ. Chị Ngọc mặc chiếc váy màu xanh nhạt, anh Tuấn và tôi đánh bộ com-lê đen, cà vạt đen, thứ cà vạt có kẹp móc không cần thắt. Chúng tôi sắp hàng sau lưng Măng, theo thứ tự lớn nhỏ, mặt quay về phía bàn thờ. Sau cùng đến lượt tôi, Măng đưa cho tôi cây nhang đã thắp sẵn, bảo tôi khấn ‘Chị Ngà, em xin chị tha thứ cho cả nhà. Xin chị phù hộ cho mọi người được may mắn’, tôi nhắm mắt khấn, tay cầm chặt cây nhang như chiếc đũa thần của chuyện cổ tích. Rồi tôi khấn thêm, “Nếu chị thành ma, em xin chị đừng về kéo chân Măng, chị nhé”. Tôi vái chị ba vái. Tôi tưởng tượng từ chiếc bài vị bằng ngà lờ mờ trong khoảng tối thần bí của bàn thờ, chị đang ghi nhận lời khấn của tôi.

Xem thêm:   Truyện tranh Hoa Kỳ về Chiến tranh Việt Nam

Măng đứng lặng trước lò sưởi, mắt Măng xa vời như nhìn xuyên qua khói nhang đang cuốn vòng bốc lên. Khi đốt mã cho chị trong lò sưởi – phần quan trọng nhất của giỗ – Măng khóc. Mấy chiếc áo dài giấy màu, mấy con búp bê đội nón và mớ tiền âm phủ bốc cháy, tỏa ra một thứ ánh sáng vàng như hoàng kim pha chút màu lục. Khuôn mặt hiền dịu của Măng ấm lên, và nước mắt lấp lánh trong mắt Măng. Cuối hành lang, gió đập từng hồi chiếc cánh cửa chớp lỏng bản lề vào mặt tường bên ngoài.

Lát sau có tiếng gõ cửa. Chúng tôi quay lại thấy chú Hiển đứng như pho tượng, tay cầm cây búa. “Vào đi chú” Măng ra lệnh. “Chúng tôi cũng gần xong rồi. Chút nữa là chú có thể bắt đầu.”

Khi chú bước tới, tôi chăm chăm ngắm khuôn mặt như tạc bằng gỗ của chú, tò mò xem chú sắp làm gì. Chú không chào ai, chỉ lẳng lặng đến đứng bên chú Lâu. Khi nhang tàn, Măng quay sang chú Hiển, vẫy tay ra hiệu, “Chú bắt đầu được rồi”.

Chú Hiển gật đầu, rồi sau khi chuyển nến đèn cũng như bát nhang sang bên, chú đưa bàn tay chai sần vuốt dọc theo bàn thờ. Rồi lấy búa, chú bắt đầu nhổ mấy chiếc đinh gắn bàn thờ vào tường.

“Măng ơi, chú ấy làm gì thế?” anh Tuấn đánh bạo hỏi câu hỏi chính tôi cũng muốn hỏi.

“Chú ấy dời bàn thờ đi nơi khác” Măng trả lời gọn lỏn. “Dời về chùa Sư Nữ trên núi.”

“Tại sao vậy Măng?” tôi buột miệng.

“Chúng mình sắp dọn ra Ðà Nẵng. Ba nhận được lệnh từ Tổng tham mưu. Ba sắp làm Tư lệnh Sư Ðoàn Một… Xem ra gần đây lại đánh nhau to. Khổ quá…”. Giọng Măng mệt mỏi khi Măng lấy ra lá thơ của ba tôi. “Và lần này, Măng sẽ không đưa chị Ngà theo. Măng nghĩ thật ra Ba có lý. Chúng mình không nên níu mãi lấy người chết”.

Chú Hiển bắt đầu lấy búa gõ lỏng hai bên bàn thờ. Tiếng búa chát chúa vang lên trong căn phòng, và trong ngôi nhà tí hon chiếc bài vị nhỏ bằng ngà ngã xuống. Chú Lâu sau giây lát ngần ngại, bắt đầu giúp chú Hiển. Chiếc đinh cuối cùng được nhổ ra với tiếng rít nhỏ. Phút chốc hai người lính đã khuân chiếc bàn thờ cồng kềnh xuống nhà dưới. Nơi khoảng tường cũ chỉ còn lại một ô trắng.

Bàn thờ đã dọn đi, tôi bỗng không còn sợ hãi về hồn ma chị Ngà. Và nhìn khoảng màu trắng trên tường, tôi nghĩ đến Ba tôi. Tôi nghĩ tới một vùng sương mù trắng đục nơi ông đang lái chiếc trực thăng của ông. Và dưới vùng sương mù ấy, nơi lúc trước là chiếc lò sưởi, bây giờ là một đô thị đang cháy, tro than hừng hực.

Còn Măng tôi, khi quay gót bước ra khỏi phòng học, bà vo viên lá thơ của Ba tôi và quẳng nó vào cái đô thị đang bị hỏa thiêu. Tôi cúi nhìn mẩu giấy, tim tôi bỗng đổ hồi. Trên tờ thư nhăn nhúm đang vặn mình dưới sức nóng, đôi ba chữ từ thủ bút của Ba tôi hiện ra rành mạch, trở thành đậm hơn đậm hơn nữa trong một luồng khói đen. Dường như có chữ hình bóng… dường như có chữ chiến tranh… Nhưng tôi không kịp vỡ nghĩa những chữ ấy, một ngọn lửa sáng chói hung bạo phật lên thiêu hủy tờ giấy đang quằn quại, biến nó thành một mảng đen mỏng manh sẵn sàng tan vỡ thành tro bụi./.

Adrew Q. Lâm

Mai Kim Ngọc dịch từ bản Anh văn “Dark Wood and Shadows” trong tập Perfume Dreams

Trần Vũ đánh máy lại tháng 5-2022 từ bản in trên tạp chí Văn Học số 117 & 118 Xuân Bính Tý phát hành tháng 1-1996, trang 47-57.