Nhiều kỳ – Kỳ 2

Lệnh đóng cửa và ngưng các hoạt động kinh tế, xã hội đã được thực hiện trong mùa dịch Covid-19. Thời dịch cúm Tây Ban Nha 1918 cũng tương tự. Tuy nhiên ngày xưa chỉ có những nơi công cộng, trường học, nhà thờ, rạp hát, vũ trường bị ảnh hưởng thôi. Phần lớn các hoạt động thương mại không bị kiểm soát hay đóng cửa, khác biệt với hôm nay.

Tiệm hớt tóc lộ thiên  

Hình ảnh các tiệm cắt tóc ngoài trời hay các hoạt động thương mại năm 1918 vẫn được tiếp tục, các quán rượu đều mở cửa. Mọi người đi làm như thường vì không đi làm sẽ bị chết đói, dù có khuyến cáo nên ở trong nhà để tránh lây nhiễm. Ngày ấy không có cứu tế, không có tiền trợ giúp của chính phủ. Không có liên mạng. Báo chí thì ít ỏi, tin tức không được tiếp cận nhanh như bây giờ. Tin giả đầy rẫy. Chính phủ sợ dân hoảng loạn, giấu được gì thì giấu.

Dân chúng hầu như không biết gì về dịch cúm từ đâu đến và lan nhanh cũng như bùng phát dữ dội như thế nào. Có người tin rằng hút thuốc sẽ giúp ngăn ngừa nhiễm trùng nên có công xưởng nới lỏng luật cấm hút thuốc. Vào tháng 11 năm 1918, Báo News of the World khuyên độc giả: “rửa mũi bằng xà phòng và nước mỗi tối và sáng. Buộc mình hắt hơi vào ban đêm và sáng sớm, sau đó hít thở thật sâu, và ăn nhiều cháo nóng”. Những người còn sống sót đã thuật lại những gì họ chứng kiến. Tài liệu của các sử gia ghi chép cùng hình ảnh lẫn tin tức thu thập được trên báo chí đã cho thấy nhiều sự trùng hợp xưa và nay.

Khái niệm về khoảng cách xã hội và cách ly thực ra đã được áp dụng từ thời Trung Cổ, thế kỷ 14, lúc có bệnh dịch hạch được gọi là “Black Death” xảy ra. GS Crawshaw, khoa lịch sử cổ học Âu Châu của Ðại Học Oxford Brookes tiết lộ, dù thời đó người ta chưa biết đến vi trùng hay vi khuẩn là gì nhưng các cơ quan y tế đã biết dùng biện pháp cách ly và khoảng cách xã hội để tránh sự lây lan của dịch bệnh. Người xưa đã rất cẩn thận trong việc giao tiếp giữa người và người qua việc trao đổi, mua bán các vật dụng kể cả thực phẩm, vì bệnh có thể truyền nhiễm trên các bề mặt của sản phẩm.

Ðể tránh lây nhiễm các quốc gia ngày nay đã ra những lệnh ngăn chặn sự di chuyển từ nơi này qua nơi khác hoặc hạn chế sự đi lại trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia có một chính sách ngăn chặn riêng tùy theo tình trạng dịch bệnh hoành hành ở quốc gia họ. Riêng ở Hoa Kỳ, sự hạn chế đã gia tăng khi dịch Covid-19 gây ra mức tử vong cao ngất ngưởng. Luật cách ly, khoảng cách xã hội và tránh tụ tập đông người suốt thời gian dịch bệnh đã tạo nên những bức bối tinh thần, phản kháng, và chia rẽ. Bị giam hãm tại gia quá lâu, con người trở nên mệt mỏi, những vấn đề về tâm thần nảy sinh. Bạo hành trong gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái gia tăng. Áp lực của sợ hãi vì cái chết và tuyệt vọng khiến tỷ lệ tự tử và bệnh tâm thần đã là một hồi chuông cảnh báo. Các cuộc biểu tình, những vi phạm luật cách ly, tụ tập đông người quá con số hạn định, đã xảy ra ở vài tiểu bang.

Dùng chất Lysol để tẩy trùng. Ảnh do tác giả cung cấp

Năm 1918 cũng vậy. Các nhóm tôn giáo đã phản kháng mãnh liệt nhất. Những biểu tình chống đối khoảng cách xã hội và luật tụ họp đã lan rộng cùng tạo nên sự nghi ngờ lẫn nhau và cộng đồng chia rẽ. Nhất là các nhà lãnh đạo tôn giáo chống đối nhiệt tình nhất. Tại Portland, Oregon, các nhà khoa học đạo Cơ Ðốc tin rằng họ miễn nhiễm với vi khuẩn cúm vì niềm tin nơi Ðức Chúa. Nhóm này tuyên bố không nên dùng quyền hành của cảnh sát để ngăn cấm sự thờ phụng Ðức Chúa Ki Tô của họ ở nhà thờ. Một nhóm Cơ Ðốc khác thắng kiện thành phố Los Angeles vì đã thi hành luật cấm tụ họp, lý do là không công bằng khi nhắm vào các hoạt động tôn giáo. Ngày nay vài nơi cũng đang đối đầu với sự kiện tụng của vài nhóm tôn giáo.

Xem thêm:   Tuyết lạnh bên trời

Sau đợt cúm TBN 1918 thứ nhì lấy đi mạng sống của con người gấp mấy lần đợt nhất, chính quyền đã đóng cửa trở lại các nhà hát và các hoạt động thương mại giải trí công cộng. Tuy nhiên, chỉ trong vài giờ, hàng chục chủ doanh nghiệp bắt đầu vận động các quan chức thành phố chống lại sự đóng cửa. Áp lực chính trị và kinh tế đè nặng khiến lệnh đóng cửa bị rút lại ngay, chỉ còn biện pháp đeo khẩu trang được giữ lại.

Trong một bài viết của ký giả Sean Illing phỏng vấn sử gia John M. Barry, ông đã viết: “Bài học lớn nhất về đại dịch cúm năm 1918, theo nhà sử học John M. Barry, là các nhà lãnh đạo cần phải nói sự thật, bất kể nó khó nghe đến mức nào. Barry, người đã viết một cuốn sách có ảnh hưởng về đại dịch năm 1918, nói rằng nói dối về mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng năm 1918 đã tạo ra nhiều nỗi sợ hãi, cô lập và đau khổ hơn cho mọi người. Tôi đã nói chuyện với Barry qua điện thoại về cái giá của dối trá với công chúng vào năm 1918, nếu ông ấy nghĩ rằng chúng ta đang lặp lại những sai lầm mà chính phủ đã gây ra thời đó, thì các nhà lãnh đạo nên cân bằng sự căng thẳng trong việc nói với mọi người những gì họ cần biết và cố gắng không để gây ra sự hoảng loạn hàng loạt”

Ðây là một số sự kiện xảy ra năm 1918 được sử gia Barry kể lại.

Xem thêm:   Đông dược

“Chính phủ nói dối. Họ nói dối về mọi thứ. Khi ấy đang xảy ra chiến tranh (Ðại Thế Chiến Thứ Nhất), và họ đã nói dối bởi vì họ không muốn tăng cường nỗ lực chiến tranh. Các nhà lãnh đạo y tế công cộng nói với mọi người rằng đây chỉ là bệnh cúm thông thường. Họ chỉ đơn giản là đã không nói với mọi người sự thật về những gì đang xảy ra. Không bao lâu sau đó người ta nhận thấy khá nhanh những gì đã xảy đến khi hàng xóm của họ bắt đầu chết 24 tiếng sau khi các triệu chứng đầu xuất hiện.

Mọi người đang đi trên đường phố đột nhiên bị chảy máu từ mũi, miệng, mắt và tai. Thật là kinh khủng. Mọi người đều hiểu rất nhanh rằng đây không phải là bệnh cúm thông thường. Sau đó là thảm họa. Người ta mất niềm tin vào tất cả mọi thứ, vào chính phủ của họ, vào những gì họ được nghe, về nhau. Nó khiến con người xa nhau hơn. Nếu niềm tin sụp đổ, con người trở nên vụng về, bất lực và đó là bản năng tồi tệ nhất trong cuộc khủng hoảng quy mô này. Cấu trúc xã hội tan rã dần dần như một dòng thác đổ vỡ. Có những hậu quả thực tế. Ví dụ, sự thiếu tin tưởng khiến cho việc thực hiện các biện pháp y tế công cộng một cách kịp thời trở nên khó khăn hơn, bởi vì mọi người không còn tin những gì họ được nghe. Và đến lúc chính phủ buộc phải minh bạch về tình hình, thì hầu như đã quá muộn. Vi khuẩn đã lan ra khắp nơi. Vì vậy, cái giá của sự dối trá và thiếu tin tưởng hao tổn rất nhiều mạng sống.”

Dân chúng cầu nguyện ngoài trời tại nhà thờ Cathedral of Saint Mary, San Francisco, CA, 1918. Ảnh do tác giả cung cấp

Ngày nay cũng vậy, nhiều chính quyền của các nước cũng giấu diếm hay lơ là khi dịch Covid-19 bắt đầu xuất hiện. Ðầu tiên là sự giấu diếm và nói dối của chính quyền Trung Quốc khi nó xảy ra ở Vũ Hán. Thế giới mới nghe nói đến nó khi nó đã bùng phát và giết chết rất nhiều người. Con số người chết cũng bị giấu nhẹm. Kẻ tiết lộ sự thật bị đem đi mất tích. Khi bệnh dịch lây lan ra nhiều quốc gia, vì sợ dân chúng hoảng loạn, có quốc gia cũng che giấu sự thật hay hạ thấp mức độ nghiêm trọng của nó, khi bệnh dịch tràn tới quốc gia họ. Lịch sử lặp lại bài học đớn đau của 100 năm trước. Nhà thương tràn ngập người bệnh, thiết bị y tế thiếu thốn vì không ai biết mà đề phòng, thuốc men cũng như thuốc ngừa chưa được phát minh và thử nghiệm. Sự hoang mang sợ hãi trước cái chết khiến người ta hành động điên cuồng như uống bậy bạ các thứ thuốc chưa được nghiên cứu và chấp nhận. Không khác gì năm 1918, người ta tin rằng dùng Aspirin sẽ chữa được cúm TBN, khiến bao nhiêu người chết vì ngộ độc do dùng nó quá liều.

Xem thêm:   mê tín dị đoan

Sử gia Barry nhận định,

“Sự khác biệt lớn nhất giữa cúm TBN và cúm Covid-19 là độ tuổi của người tử vong. Vào năm 1918, phần lớn những người chết từ 18 đến 45 tuổi. Có lẽ hai phần ba số người chết ở độ tuổi đó, hơn 90% tỷ lệ tử vong là những người dưới 65 tuổi. Vì vậy, rõ ràng người cao tuổi vào năm 1918 đã trải qua một loại virus nhẹ nhờ trải qua sự miễn dịch tự nhiên.

Một khác biệt nữa là tỷ lệ ủ bệnh. Tốc độ ủ bệnh trung bình của cúm TBN là hai ngày, hầu như không bao giờ dài hơn bốn. Trung bình của Covid-19 dài hơn gấp đôi và có thể kéo dài khá lâu hơn, điều đó bao gồm cả tốt và xấu. Ðiều tốt là nó cho phép thời gian tiếp xúc, theo dõi, cô lập và những thứ tương tự, điều gần như không thể có trong dịch cúm TBN. Ðiều tồi tệ là virus này có thể lan ra trong một khoảng thời gian dài hơn và lây nhiễm cho nhiều người hơn. Nó dường như dễ lây hơn bệnh cúm TBN.”

TTT