Vừa là nhà phê bình văn học vừa là người viết sử, Thụy Khuê đã hoàn tất nhiều công trình công phu: Nhân Văn Giai Phẩm – Vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tự Lực Văn Đoàn – Văn học và Cách Mạng, Vua Gia Long và Người Pháp… Có thể xếp Thụy Khuê vào khuynh hướng duyệt xét lại lịch sử trong mục đích tìm kiếm sự thật, hay ít nhất những gì đã xảy ra trong quá khứ còn có thể thu thập được qua văn bản mà không chịu tác động của tuyên truyền, cùng các định kiến.
Lịch sử Truyền giáo và chữ Quốc ngữ là nghiên cứu đồ sộ sau cùng của Thụy Khuê. Chương viết về Trương Vĩnh Ký với sưu khảo dày đặc tài liệu nói lên công sức của bà đang cho cách nhìn khác về một nhân vật được xem là vĩ nhân đất Việt. Trương Vĩnh Ký có xứng đáng không? Câu trả lời của Thụy Khuê đầy nghiêm khắc: Trương Vĩnh Ký xứng đáng nhận Bắc đẩu Bội tinh của xứ Đại Pháp.
Đồng ý hay không, trước nhất phải đọc những tài liệu mà Thụy Khuê tìm thấy. [Trần Vũ]
Thụy Khuê
Chương 11 – Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
Phần VII: Cuộc xâm lăng của Pháp dưới ngòi bút
Trương Vĩnh Ký – Kỳ 4
Minh Mạng hủ hoá với chị dâu và giết cháu
“Tội trạng” này được Trương Vĩnh Ký đúc kết trong một câu ngắn gọn: “Nghe nói, Minh Mạng, thông dâm với người vợ goá của anh, bà này có mang, khi thấy rõ, bèn bị kết án tử hình vì tội loạn luân cùng với hai con.“
Đây là một vụ án quan trọng và nhức nhối của triều Nguyễn, kéo dài nhiều năm, từ đời Minh Mạng sang đời Tự Đức, được ghi lại khá chi tiết trong hai bộ Đại Nam liệt truyện và Đại Nam thực lục.
Đại Nam Liệt truyện, đoạn ghi truyện thái tử Cảnh khá dài, (trang 52- 58). Chúng tôi tóm tắt một số dữ kiện chính sau đây:
“Năm Tân Dậu (1801) mùa xuân, ông [thái tử Cảnh] bị bệnh đậu chết, tuổi 22. […]
Vợ là Tống Thị Quyên có hai trai là Mỹ Đường (lại tên là Đán) và Mỹ Thùy (lại tên là Cảnh)[37]. Năm Gia Long thứ 16 phong Mỹ Đường làm Ứng Hòa công, Mỹ Thùy làm Thái Bình công, tước trật lương bổng hàng năm và thưởng cho cũng như Hoàng Tử công. […]
Năm Minh Mạng thứ năm (1824), Mỹ Đường bị người mật tố cáo là tư dâm với mẹ họ Tống. Tống thị phải tội dìm xuống nước cho chết [Đại Nam thực lục ghi rõ hơn: người phát giác là Lê Văn Duyệt, và vua sai Lê Văn Duyệt xử tử Tống thị]; Mỹ Đường phải dâng nộp ấn và giây thao [không rõ là gì?], giáng xuống làm thứ nhân; con trai con gái biên phụ vào sau sổ họ Tôn thất. Năm thứ bẩy [1826], Mỹ Thùy bị quân lính ở Dực Chấn kiện, sắp giao xuống cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh chết, không có con, nên lấy con của thứ nhân (Mỹ Đường) là Lệ Chung tập phong là Ứng Hoà hầu, phụng thờ Anh Duệ Hoàng thái tử [Thái tử Cảnh], năm thứ 8 [1827] đổi phong làm Thái Bình hầu” [38]
Vụ án kéo dài nhiều năm, từ đời Minh Mạng thứ năm (1824) sang đời Tự Đức. Hoàng gia và Triều đình (Tôn nhân phủ và Bộ Lễ) hội họp nhiều lần để giải quyết. Lệ Chung, con cả của Mỹ Đường được phong làm Thái Bình hầu từ năm Minh Mạng thứ 8 (1827) để thờ phụng Thái tử Cảnh, rồi đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), con cái của Mỹ Đường được ghi tên vào gia phả trở lại, nhưng đến năm Minh Mạng thứ 17 (1837) lại bị tước bỏ tên đi… Năm Tự Đức thứ hai (1849) Mỹ Đường bị bệnh qua đời. [39]
Trong một nước trọng đạo thánh hiền, việc loạn luân mẹ con là tội rất nặng. Những quyết định và phủ định trong “vụ án” này chứng tỏ những khó khăn, nghịch cảnh, mà người phạm tội là cháu vua, con của vị thái tử đã qua đời, khiến triều đình và hoàng gia không thể dứt khoát trong việc định tội. Chỉ cần đọc câu:
“Năm [Minh Mạng] thứ 17, mùa đông, Phủ tôn nhân lại hội đồng với bộ Lễ tâu nói: thứ nhân là Mỹ Đường tội ác nặng lắm, con trai, con gái [của Mỹ Đường] há nên còn để ở tôn phả; duy Lệ Chung [con cả của Mỹ Đường] đã được tập phong để giữ việc thờ tự về dòng Anh Duệ [Thái tử Cảnh] xin cho miễn nghị, còn con trai Lệ Chung là Lệ Ngân, con gái là Thị Văn, Thị Dao đều giáng làm thứ dân, tước bỏ tên ở sổ họ Tôn thất. Vua theo lời tâu. Năm [Minh Mạng] thứ 20 (1839) đổi phong [cho Lệ Chung làm] Cảm hoá hầu Thái tử bình công, sau sai giữ việc thờ tự Anh Duệ Hoàng thái tử” (Đại Nam liệt truyện, tập 2, trang 53-54).
Đến đời Tự Đức, các cháu của Mỹ Đường lại được Đông các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn, xin đình thần xét lại, “ban ơn” cho được có tên trong gia phả trở lại. Năm Tự Đức thứ 2 (1849) Mỹ Đường qua đời, Tạ Quang Cự và 30 đình thần, tiếp nối Vũ Xuân Cẩn, ký đơn xin ân xá, Tự Đức đọc lại hồ sơ hai ba lần, cuối cùng chấp thuận. [40]

Viết về một cái án cực kỳ phức tạp như vậy, mà Trương Vĩnh Ký chỉ phán có một câu ngắn gọn: “Nghe nói, Minh Mạng, thông dâm với người vợ goá của anh, bà này có mang, khi thấy rõ, bèn bị kết án tử hình vì tội loạn luân cùng với hai con.“
Không một sử gia nào trình bày một sự kiện lịch sử bằng hai chữ “nghe nói“.
Chính hai chữ nghe nói đã gạch hai chữ sử gia từng được gắn bó với tên Trương Vĩnh Ký, để đưa ông vào danh sách những người viết chuyện tầm phào.
Minh Mạng giết hại công thần
Dường như thấy những “tội” ấy chưa đủ ác, Trương Vĩnh Ký thêm vào các tội tầy trời khác: Minh Mạng giết cha con Nguyễn Văn Thành và giết hụt Lê Văn Duyệt. Xin nhắc lại những lời Trương Vĩnh Ký, đã trích dẫn ở trên:
“Sau khi đã loại trừ được hai địch thủ chính thức [Mỹ Đường và Mỹ Thuỳ] ông ta [Minh Mạng] nghĩ đến việc loại trừ hai lão tướng vinh hiển, quan đầu triều, có ảnh hưởng lớn, là bạn đồng hành và chiến thắng của cha, mà uy quyền của họ gây trở ngại cho ông trong những thủ đoạn nham hiểm và độc ác“.
Và để chứng minh điều này, Trương Vĩnh Ký kể lại câu chuyện sau đây:
“Ở đây, còn hiện ra mưu mẹo khốn nạn là đáy sâu bản chất đồi bại của ông ta:
Minh Mạng quyết định gán tội phản loạn cho họ, bằng cách mua chuộc hai viên thư ký giữ triện của hai người này, làm đồng loã với vua, sai chúng học viết giống như chữ chủ và chữ con trai chủ. Ít lâu sau, người ta dùng cạm bẫy, bắt được một lá thư giả mạo, đưa lên Minh Mạng. Lá thư này kêu gọi nổi loạn, viết chữ con trai kinh lược Bắc Hà, dưới đóng triện của kinh lược Thiềng. Thiềng, lập tức bị gọi từ Bắc về triều, không thể chối cãi dấu triện của chính mình và chữ con trai. Chứng cớ rành rành. Không cần đếm xỉa đến những lời giải thích, biện hộ, không cần đếm xỉa đến quá khứ oanh liệt của Thiềng, Minh Mạng xử tử. Thiềng và con trai nhận lệnh phải chết.
Lê Văn Duyệt dự buổi xử của nhà vua; Thiềng bị kết án trước mắt ông. Duyệt biết rõ Minh Mạng; hiểu ngay bạn mình là nạn nhân sự tráo trở của nhà vua và đoán ra âm mưu ghê tởm mà ông ta đã bị rơi vào; lòng oán hận đột nhiên nổi dậy, ông rời triều về tìm xem cái triện của mình có còn nguyên chỗ cũ hay không. Không thấy. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Ông sai tìm người gác triện, thấy y đứng như bất tỉnh, dáng điệu lơ láo, bên giếng, y được dẫn tới trước mặt ông, và bị lục soát. Thấy ngay cái triện và một bức thư giả, chưa gửi. Thống chế [Duyệt] sai chặt đầu y tức khắc. Sau đó, ông tìm gặp Minh Mạng, nói rằng miền Lục tỉnh đang có băng đảng hoành hành, ông phải về để dẹp trước khi nổ lớn. Minh Mạng không dám giữ; mà còn sung sướng thấy ông tự ý rời xa. Lê Văn Duyệt về Sài Gòn với chức Kinh Lược Sứ.”
Câu chuyện cực kỳ hấp dẫn, chỉ hiềm Nguyễn Văn Thành đã chết từ năm 1817 dưới thời Gia Long rồi, còn đâu để Minh Mạng xử tử lần thứ hai?
Bi kịch của cha con Nguyễn Văn Thành trải dài trong 3 năm, từ năm Gia Long thứ 14 [1815] đến năm Gia Long thứ 17 [1818], được ghi trong Đại Nam thực lục, như sau:
“Vua [Gia Long] tuổi đã cao mà chưa định người nối ngôi. Hoàng tử thứ tư [Minh Mạng sau này] hiền và lớn hơn cả, vua đã để ý. Bầy tôi đều có lòng theo. Riêng một Nguyễn Văn Thành là người ngạo mạn kiêu căng, muốn được vua nhỏ tuổi, không thích vua lớn tuổi. Một hôm mời các quan uống rượu ở nhà, nói lên rằng: “Hoàng tôn Đán [con trai Thái tử Cảnh] nối ngôi, tôi sắp tâu xin lập đấy”. Trong đám ngồi không ai dám nói gì, Trịnh Hoài Đức sợ họa lây mình, bèn nói rằng: “Việc lớn của nhà nước, quyết định do ở lòng vua, nếu người bầy tôi định kế riêng, tham lấy công to thì tội lại lớn”. Văn Thành bèn thôi. Sau có người nói đến tai vua. Vua [Gia long] giận nói rằng: “Hắn muốn dựng vua nhỏ để dễ khống chế, ngày sau có thể chẹt họng vỗ lưng chăng. Ta há tối tăm nhầm lẫn, không biết đắn đo nên chăng, vội nghe lời hắn mà không vì Xã Tắc chọn người sao? Từ đó hễ cứ Văn Thành vào yết kiến là chỉ xin dựng thái tử. Vua nín lặng. Văn Thành tự biết không được thoả ý, càng thêm ngờ sợ. Con là Văn Thuyên nhòm biết ý cha, thầm mang lòng phản trắc, bèn giao thông khách khứa kết riêng bè đảng. Văn Thành cũng không ngăn cấm.”
Văn Thuyên làm bài thơ có ý “phản kháng” lời rất “bội nghịch” [41]. Hình bộ Thượng thư Nguyễn Hữu Nghi cho rằng Văn Thuyên muốn nổi loạn.
“Nghi sai Trương Hiệu đem thơ ấy cáo với Lê Văn Duyệt. Duyệt với Văn Thành vốn không ưa nhau, bèn đem thơ phản nghịch của Văn Thuyên dâng lên. Vua cho rằng sự trạng chưa được rõ rệt, hãy để đấy mà trả bài thơ ấy về.” [42]
Việc dằng dai vì Vua Gia Long không nỡ kết tội. Năm sau (1816) Nguyễn Duy Hòa vào chầu, lại dâng sớ hạch Nguyễn Văn Thành.
Tóm lại, việc Nguyễn Văn Thành được ghi rõ trong Đại Nam thực lục: ông là vị quan giữ “ngôi vị cao nhất trong hàng bầy tôi”; nhưng vì con trai làm bài thơ có tính cách “phản kháng”, nên ông bị bắt giam vào nhà quân Thị trung. Bị triều thần đưa ra hạch tội, vua Gia Long không bênh vực, Nguyễn Văn Thành uất ức, uống thuốc độc tự tử, trong tháng 6-1817 [43]
Tại sao Trương Vĩnh Ký tráo đổi cái chết của Nguyễn Văn Thành đời Gia Long sang đời Minh Mạng? Hành động viết sử này, đến từ động lực nào? Nếu không phải là để thoả mãn đòi hỏi: cố tình tạo ra một Minh Mạng bạo tàn, vô ơn, vô luân… để dễ bề buộc tội.
Sự buộc tội Minh Mạng
Sau khi đã đưa ra những tội ác tưởng tượng trên đây, Trương Vĩnh Ký có đủ bằng cớ để viết lời buộc tội:
“Sau tội ác tầy đình mà sự vô liêm sỉ và đạo đức giả đen tối nhất, pha trộn với lòng hiểm ác thâm độc, đua chen tranh nhau địa vị như thế, ta có cần phải ngạc nhiên trước thái độ của nhà vua đối với các sĩ quan Pháp và các vị thừa sai? Không, dĩ nhiên là không. Minh Mạng, bản chất độc ác, lạnh lùng, đen tối và gian trá, từ nay có thể làm tất cả, mà biết chắc chắn là không bao giờ quá.” [44].
Những lời buộc tội gắt gao này cho thấy rõ mục đích của việc bôi nhọ Minh Mạng: để tố cáo thái độ của Minh Mạng đối với các thừa sai và các “sĩ quan” Pháp. Đó là động lực chính. Bởi vì nhà vua có chính sách đối ngoại cứng rắn, ông xây dựng một quốc gia có kỷ cương, quân đội hùng mạnh, trù liệu ngăn chặn trước sự xâm lăng của đế quốc Anh, Pháp, và hạn chế ảnh hưởng đạo Gia Tô, khiến người Pháp không làm gì được, khi ông còn sống.Bôi nhọ Minh Mạng là công tác Trương Vĩnh Ký được Pháp giao phó.
Trương Vĩnh Ký
đặt chức tước cho các “sĩ quan” Pháp
Trương Vĩnh Ký là người đã đặt chức tước rõ ràng cho các “sĩ quan” Pháp, trong khi các tác giả khác chỉ nói mơ hồ họ là “sĩ quan”. Ông viết (xin tóm tắt):
“Các vị sĩ quan quả cảm đã dùng tâm và tài phục vụ nhà Nguyễn, là:
Các ông J.B. Chaigneau […] Chúa tàu Long…
[…] Chúa tầu Phụng…
Và Philippe Vannier […]
Các sĩ quan dũng cảm này được các bạn đồng hành xứng đáng lần lượt đi theo:
Các ông: Jean-Marie Dayot, hạm đội trưởng, cai quản hai tầu: Đồng Nai và Prince de Cochinchine.
Victor Ollivier (ông Tín), sĩ quan công binh; đặc trách tổ chức binh chủng pháo binh và xây thành lũy. […]
Théodore Le Brun, kỹ sư, phụ trách xây dựng thành lũy.
Laurent Barisy, Trung tá.
Julien Girard de l’Isle-Sellé, Đại tá hải quân.
J.M. Despiaux, Thầy thuốc của vua Gia Long.
Louis Guillon, Đại uý hải quân.
Jean Guilloux, Đại uý hải quân.
Tất cả các sĩ quan này đạt danh vọng vì những công trình nổi tiếng của họ, mà đầu óc hẹp hòi, dốt nát, ghen tỵ và xấu xa của đẳng cấp quan lại và nho sĩ kiêu ngạo không thể tha thứ cho họ” [45]
Các vị “sĩ quan” quả cảm và đầy thành tích trên đây, thực ra chỉ là những người lính đào ngũ, đến Việt Nam để kiếm của cải, “kho tàng”, chúng tôi đã trình bày tiểu sử của họ trong cuốn Vua Gia Long và người Pháp, ở đây chỉ xin tóm tắt lại vài hàng:
– Laurent Barisy là một thanh niên phiêu lưu, đã từng làm việc trên các thương thuyền, không có chức tước gì cả.
– Théodore Le Brun: lính tình nguyện binh nhì trên tầu Méduse, đào ngũ, đến Nam Hà năm 1790, bỏ đi năm 1791. Không phải là kỹ sư, và cũng không xây dựng thành lũy nào cả.
– Jean-Marie Dayot: từng làm việc trên các thương thuyền, đến Nam Hà khoảng 1789, nhận bằng cai đội của vua năm 1790. Dưới quyền Dayot có: Vannier cai đội, quản tầu buôn Đồng Nai cùng với phó cai đội Guilloux. Julien Girard de l’Isle-Sellé, quản tầu buôn Le prince de la Cochinchine, cùng với phó cai đội Guillon. Nhiệm vụ của Dayot là ra nước ngoài mua bán hàng hoá cho Nguyễn Vương. Năm 1792, Dayot phạm tội thâm lạm ngân quỹ. Năm 1795, Dayot làm đắm tầu Đồng Nai, phải trốn đi [46].
Sự tôn tạo những người lính Pháp đào ngũ, phần lớn vô học, sang nước ta kiếm ăn, thành những kỹ sư, đại tá, đại uý hải quân… có mục đích rõ ràng: để lập cho họ những công trạng: đào tạo quân đội, thành lập binh chủng và xây dựng thành đài cho Nguyễn Vương, điều mà họ không có khả năng làm được.
– Olivier de Puymanel là trường hợp được Trương Vĩnh Ký tôn vinh nhất, sẽ nói dưới đây.
Dựng chuyện Olivier de Puymanel xây thành trì ở Việt Nam
Hệ thống thành Vauban, do Sébastien Le Prestre, marquis de Vauban, sáng tạo năm 1668 ở Pháp. Thành này có đặc điểm: xen kẽ pháo đài lồi ra vào tường thành lõm vào. Khiến lính gác đứng trên pháo đài có thể nhìn thấy cả 3 phiá: phải, trái, trước mặt. Thành Vauban thường được biểu thị trên bản đồ bằng những răng cưa.
Vì vậy, những bản đồ của người Pháp vẽ các thành luỹ ở Việt Nam, đều có hình răng cưa, tức là biểu đồ của thành Vauban. Nhưng khi ta đến tận nơi xem những thành còn lại từ thời Pháp thuộc như Diên Khánh, Huế, Hà Nội, Sơn Tây… thì tường thành đều thẳng tắp, không có pháo đài, không có chỗ nào lồi ra cả.
Chúng tôi đã trình bày và chứng minh việc thành Vauban ảo này trong cuốn Vua Gia Long và người Pháp [47], ở đây chỉ nhấn mạnh thêm 2 điểm:
- Ai đặt bày ra trò có thành Vauban ở Việt Nam?
- Làm như thế với mục đích gì?
Câu trả lời là: chính Trương Vĩnh Ký trong Cours d’Histoire Annamite, năm 1875 đã viết câu:
“Ở Sài Gòn, nơi mà ông [Nguyễn Vương] thấy có thể làm dinh cơ vĩnh viễn và thủ đô, ông sai M. Ollivier dựng nên một thành trì, trên đất của làng Tân Khai (1789). Thành hình bát giác và mỗi mặt trổ một cửa. Ngày nay ta còn thấy những dấu vết sau cùng, trong đường hầm nối tiếp phố Pellerin đến giếng thuỷ tĩnh (puits hydrostatique), rồi trở về phía đường Nationale giữa đường Chasseloup-Laubat và đường Mois…” [48]
– Năm 1897, Trương Vĩnh Ký, viết lại việc này lần thứ nhì:
“Tháng 2 trong năm [1790] vua dạy ông Olivier với ông Le Brun coi xây thành Gia Định tại làng Tân Khai, xây thành Bát Quái có 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Hoà” [49].
Khi tìm lại tiểu sử Olivier tức Olivier de Puymanel và Le Brun, tức Théodore Le Brun, chúng tôi chỉ thấy họ là lính thủy tự nguyện, ít học, chữ viết đầy lỗi, đào ngũ, chưa từng học kỹ sư, kiến trúc, bao giờ [50].
Sự thực, thành Gia Định, còn gọi là Gia Định kinh, đắp năm 1790 [51]. Đại Nam thực lục ghi:
“Ngày Kỷ Sửu (tháng ba Canh Tuất) [22-4-1790], đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm […] Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn mười ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái Miếu […] Thành xong gọi là kinh thành Gia Định. Thưởng cho quân dân hơn 7.000 quan tiền (Tám cửa thành đều xây bằng đá ong, phiá nam là cửa Càn nguyên và cửa Ly minh, phiá bắc là cửa Khôn hậu và cửa Khảm hiểm, phiá đông là cửa Chấn hanh và cửa Cấn chỉ, phiá tây là cửa Tốn thuận và cửa Đoài nguyệt” [52]
Những chữ “đắp” được lặp đi lặp lại trên đây cho biết thành Gia Định làm bằng đất và được đắp, chứ không xây như thành Vauban của Tây.
Theo Trịnh Hoài Đức, thành Bát Quái hình vuông, mỗi bề 131 trượng 2 thước (638.944m). Chu vi 2.555km. Cao 10 thước (4.87m). Chân dày 36.525m. Ngoài thành là lớp hào rộng 51.135m, sâu 6.818m, có cầu treo. Lớp ngoài cùng là luỹ đất, chu vi 794 trượng (3.866km).
Năm 1795, Shihõken Seishi, người Nhật, bị đắm tầu, thủy thủ đoàn được Nguyễn Vương giúp đỡ, ở lại Gia Định từ tháng 2 đến tháng 5-1795, ông viết tác phẩm Nampyõki (Đắm tầu ở Nam Hải) kể lại hành trình này, mô tả kinh thành Gia Định, vẽ bản đồ thành Gia Định (như dưới đây) không có gì là thành Vauban cả. [53]

Bản đồ Gia Định kinh của Shihõken Seishi, phù hợp với sự mô tả trong Đại Nam thực lục và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức [54]

Thành Gia Định, kiểu Vauban, của Nguyễn Đình Đầu [56]
Chú thích này rất lạ lùng, Nguyễn Đình Đầu không nói bản đồ này ai vẽ, chắc là chính ông vẽ. Tại sao ông không cho in thẳng những tư liệu gốc, ít nhất bản đồ của Trương Vĩnh Ký, Le Brun… nếu ông có, lên sách?
Chúng tôi đoán rằng, ông đã chép lại bản đồ Malleret 1935, và bản đồ này được chỉ định vẽ ra để “chứng minh” việc các sĩ quan Pháp xây thành Vauban trên khắp xứ Việt Nam!
(còn tiếp)
[37] Chú thích của Liệt Truyện: chữ Cảnh này nghiã khác với chữ Cảnh tên thái tử Cảnh.
[38] Đại Nam liệt truyện, tập 2, [tức là Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập] nxb Thuận Hoá, Huế, 1997, trang 52-53.
[39] Đại Nam liệt truyện, tập 2, các trang 54, 55, 56.
[40] Đại Nam liệt truyện, tập 2, trang 53-58.
[41] Thơ rằng [Phiên âm]:
Văn dạo Ái Châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cẩu ti
Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác;
Thiện tướng phương tri Ký Bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn:
Cao cương minh phượng cửu cao tri.
Thử hồi nhược đắc sơn trung tế.
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
Dịch:
Nghe nói Ái Châu nhiều tuấn kiệt
Dành để chiếu bên ta muốn chờ,
Vô tâm ôm mãi ngọc Kinh Sơn
Tay sành mới biết ngựa Ký Bắc.
Thơm nghìn dặm lan trong hang tối:
Vang chín chằm phương hót gò cao.
Phen này nếu gặp tể [tướng] trong núi,
Giúp ta kinh luân chuyển hóa cơ.
[42] Đại Nam thực lục chính biên, Tập 1, trang 912-914.
[43] Đại Nam thực lục chính biên, Tập 1, trang 948.
[44] Nguyên văn tiếng Pháp: “Faut-il après un pareil crime, où le cynisme et l’hypocrisie la plus noire, se mêlant à la plus profonde scélératesse, semblaient se disputer la palme, s’étonner de sa conduite envers les officiers francais et les missionnaires? Non, évidemment. Minh Mạng, nature méchante, froide, sombre et fausse, pouvait désormais tout entreprendre, sur de ne jamais aller au-delà”. (Cours d’Histoire Annamite, trang 260).
[45] Cours d’Histoire Annamite, trang 226-227.
[46] Vua Gia Long và người Pháp, các trang 535-546- 442-448 -449-489.
[47] Vua Gia Long và người Pháp, 2017, trang 307-335.
[48] Trương Vĩnh Ký, Cours d’Histoire Annamite, trang 227.
[49] Trương Vĩnh Ký, Biên Tích Đức Thầy, Pinho Quận Công, Sài Gòn, 1897, trang 33.
[50] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Chương 12: Huyền thoại Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh (trang 307-335).
[51] Xem Vua Gia Long và người Pháp, chương 13 Gia Định kinh (trang 287-355).
[52] Đại Nam thực lục, tập1, trang 257.
[53] Tác phẩm Nampyõki được Muramatsu Gaspardonne dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong Bulletin de l’Ecole Francaise d’Exrême-Orient (BEFFO), 1933, trang 35-120.
[54] Trích Vua Gia Long và người Pháp, trang 325.
[55] Bài này được in trong Điạ chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, nxb thành phố HCM, 1987, trang 127-231.
[56] Trích Vua Gia Long và người Pháp trang 319.









