Hồng, người con gái quê ở Trảng Bàng – Tây Ninh, lên Sài Gòn kiếm việc. Có người bạn của Hồng quen biết ông Phú nên nhờ giúp đỡ. Ông Phú giới thiệu Hồng làm giúp việc cho ông bà Hoàng, chủ tiệm bán thực phẩm ở đầu phố. Hằng ngày, Hồng nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, đưa đón mấy đứa nhỏ đi học, chiều tối xong việc về tá túc tại nhà ông Phú.

Ông Phú là một người thích trăng hoa hay “mượn gió, bẻ măng”, thấy ai đang gặp khó khăn trên đường đời, ông đều vươn tay ra giúp đỡ rồi dụ dỗ về làm vợ bé. Tuy chỉ là trung sĩ, tài xế lái xe cho một sĩ quan, nhưng ông Phú có oai với vợ con lắm. Chiều tối đi làm về, ông được đón rước từ đầu ngõ, cơm bưng nước rót, cung phụng như “vua”. Ông số đa thê, có tới 6 bà vợ, nhưng thật ra chỉ còn lại hai già, một trẻ: bà nhất, nhị và Hồng là thứ sáu; bà ba, tư, năm đã lần lượt bỏ đi “như những dòng sông nhỏ”. “Vương quốc” của ông Phú bé tí, tối tăm bẩn thỉu, con cái nheo nhóc ngủ lăn lóc dưới nền đất. Nghèo khổ vậy mà lẫm đẫm có tới 6 bà đã đi qua đời ông.

Hồng có khuôn mặt bầu bĩnh, da ngăm ngăm, đôi mắt ướt buồn như luôn giận hờn trên cái mũi tí hin và nụ cười móm duyên. Tuổi mới lớn đong đầy mộng mơ, Hồng yêu mê một anh lính có tài đàn ca. Khi biết Hồng có bầu, anh ta xin thuyên chuyển đi biệt xứ. Đứa con gái sinh ra èo uột khó nuôi rồi mất sớm.

Chị em Hồng hồi còn nhỏ xíu đã mồ côi. Cha đi lính chết trận, bỏ lại bà má đơn độc, ngày ngày đổ bánh ướt, bánh tráng mang ra chợ bán, vất vả với một nách bốn đứa con. Hồng là con lớn, duyên phận lỡ làng, học hành dang dở, lên thành phố “ở đợ” kiếm tiền gởi về quê phụ giúp má nuôi em.

Một buổi sáng, ông bà Hoàng lo ngại khi nhìn thấy đôi mắt của Hồng bầm tím, tròng mắt đỏ au, miệng sưng to với đôi môi dập máu. Đêm hôm qua, ông Phú say xỉn đánh hai bà vợ lớn, Hồng nhào vô can, cũng bị đánh tàn tệ. Ông bà chủ cám cảnh, thương tình, sắp xếp cho Hồng tạm ở trong nhà ít lâu cho qua cơn sóng gió.

Hồng muốn đi tìm kiếm việc làm khác, rời xa cái xóm nghèo và ông chồng hờ, đã già lại vũ phu. Thúy, người bạn cùng xóm rủ Hồng đi làm bồi phòng cho một câu lạc bộ của sĩ quan Mỹ. Cuộc đời cô gái quê lại bước sang một khúc quanh của định mệnh…

Bảo Huân

Tháng Tư năm 1975, miền Nam thất thủ, Hồng trở về xóm cũ, ở đậu nhà Thúy, người bạn cùng làm «sở Mỹ», nàng ẵm theo đứa con trai lai da đen. Hai mẹ con bị đuổi khỏi cư xá với vỏn vẹn một ít đồ dùng cá nhân.

Hồng bán rau củ ngoài chợ để sinh nhai. Nhưng ít lâu sau, Thúy phải bán nhà, về với cha mẹ ở Mỹ Tho. Không nơi nương tựa, Hồng đành ôm con trở về quê cũ.

Thuở ấy, ở một xã hội đầy thành kiến, những người “me Mỹ” thường bị khinh miệt, kỳ thị. “Thằng cu Đen» bị ruồng rẫy vì màu da, vì thù hận hay vì nó là di sản của một cuộc chiến tranh mà “ngoại bang” hay “đế quốc” đã để lại? Dù sao đi nữa, nó cũng chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Nó có đôi mắt to tròn, mũi cao và nụ cười hồn nhiên. Cha của nó lai da đen và trắng, sống ở vùng Texas có cao bồi thích đấu súng. Má nó thường kể lể: “lúc đó khổ quá! chỉ có cha là người thương yêu lo lắng cho má nên má thương ổng.”

Xem thêm:   Khi đàn bà... ghen!

Hồng trở về quê, phụ làm bánh tráng với bà má. Bánh tráng Trảng Bàng nổi tiếng dẻo ngon, được nhiều người ưa thích. Nhưng ít lâu sau, Hồng không mang bánh tráng lên Sài Gòn bán nữa…

Người yêu là lính của Hồng đã lủi thủi về quê khi cuộc chiến tàn, anh về nay đã cụt một chân! Gặp lại Hồng, có đứa con lai Mỹ đen, Tài càng điên cuồng căm ghét. Tài bán vé số và ca hát ở bến xe kiếm sống, hắn thường uống rượu say sưa đến kiếm chuyện đánh chửi Hồng. Khi mới lớn yêu mê Tài rồi trao thân chứ không có cưới hỏi, mà nay Hồng cũng không phải là vợ hắn, nhưng vẫn bị đeo bám quấy nhiễu đòi tình. Hồng đau khổ vì đã ngu dại yêu thương một kẻ tệ bạc như Tài.

Hồi nhỏ Hồng thường theo cha qua xóm đóng ghe chơi, ở đó có chú Tư Thới, bạn của cha, Nam con trai chú Tư rất thích chơi đùa với Hồng. Từ khi cha chết, không còn qua nhà chú Tư, không còn gặp Nam. Lớn lên, tình cờ gặp Hồng, tay dắt đứa con lai, Nam ngỡ ngàng, nhưng ngậm ngùi thương cho thân phận hẩm hiu của hai mẹ con.

Gặp lại Hồng, Nam thường đến giúp đỡ, dựng những khung phơi bánh tráng rất gọn gàng tiện lợi. Nam còn che chở, bảo vệ Hồng những khi Tài đến sinh sự. Tình yêu thương nảy nở, Nam rủ Hồng vượt biên giới Campuchia, tìm đến trại tị nạn ở Thái Lan, xin đi Mỹ kiếm cha của “thằng cu Đen”. Nam biết tiếng Campuchia, thường qua buôn bán ghe và trao đổi lâm, ngư sản nên rành đường đi nước bước.

Thị xã Trảng Bàng nằm ở phía đông nam tỉnh Tây Ninh, thuộc miền Đông Nam Bộ, gần biên giới Campuchia. Đây là vùng rừng núi, nhưng cũng có nhiều sông ngòi, kinh rạch nên hệ thống đường thủy đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội và cũng thuận lợi cho việc “vượt biên” của những người muốn đi tìm tự do.

Hồng liều lĩnh dắt con theo Nam vượt biên, khởi đầu cho một cuộc hành trình đầy khắc nghiệt! Rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún đi tìm tự do cho chính mình và đứa con lai đang sống dưới sự xung đột của xã hội, thù ghét của chính trị, kỳ thị của màu da.

Qua bao chặng đường bộ cũng như đường biển đầy chông gai, nguy hiểm, sau cùng, đến trại tị nạn Songkhla – Thái Lan. Xin đi định cư ở Mỹ, Hồng khai Nguyễn văn Đông là con lai Mỹ, cha tên David Thompson. Hồng không rành tiếng Mỹ nên cũng không đủ ngôn từ để biết nhiều về người cha của đứa nhỏ. Chỉ còn giữ những tấm hình chụp chung trước khi người ấy rời Việt Nam vào năm 1975, lúc đó Đông mới lên hai tuổi.

Xem thêm:   Chết

Nam khai làm nghề đóng ghe nên được đưa về Louisiana nơi có nhiều người Việt làm nghề đánh cá. Người bảo trợ giúp Hồng kiếm việc, làm lao công ở một trường tiểu học. Nam theo những ngư phủ đi biển đánh bắt cá tôm. Trận bão Katrina ở Louisiana vào tháng Tám năm 2005 nổi lên, tàn phá khốc liệt, khiến Nam và Hồng phải phiêu bạt sang Texas sinh sống.

Đến Houston, Hồng xin vào làm phụ bếp cho một nhà hàng. Ở đây, cộng đồng người Việt đông đảo, thường tụ tập ở khu Bellaire, nơi có nhiều cơ hội gặp gỡ đồng hương. Người bạn cùng quê rủ Nam đi làm vườn, cắt cỏ, kiếm được khá tiền nhờ sức lao động cần cù.

Một hôm, đến làm vườn cho bà Susan, một giáo sư về hưu, bà biết Nam là người Việt nên trò chuyện hỏi thăm. Nam cho biết: vợ làm phụ bếp ở nhà hàng, con trai đi lính đã từng phục vụ ở Afghanistan, hiện đang học đại học, rồi Nam đưa hình vợ con ra khoe. Bà Susan thắc mắc:

– Hai vợ chồng đều là người Việt da vàng, sao đứa con lại da đen vậy?

Nam vui vẻ giải thích:

– Đông là con của vợ tui với một sĩ quan Mỹ trước năm 1975. Tụi tui lấy nhau nhưng không có con. Tui thương thằng nhỏ này như con.

Nghe xong, bà Susan bùi ngùi kể lại chuyện con trai bà tham gia chiến tranh Việt Nam, sau 1975 trở về Mỹ, bị “Hội Chứng Chấn Thương Tâm Lý Thời Hậu Chiến” (Post Traumatic Stress Disorder) rồi tự tử. Hiện nay, bà sống lẻ loi một mình vì chồng là một cựu trung tá vừa mới qua đời.

Bà Susan đưa Nam coi hình gia đình, bà da trắng nhưng chồng và đứa con lai da đen. Bà buồn rầu tâm sự… Con trai có người tình và đứa con, khi miền Nam thất thủ, người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam nên mất liên lạc. Bao năm đi tìm kiếm, dò la tin tức của những người con lai được mang qua Mỹ theo Chiến Dịch Di Tản Cô Nhi  (Babylift Operation), Tình Mỹ Lai Á không Biên Giới (Amerasians without Borders), Chiến Dịch Đoàn Tụ (Operation Reunite), và có đến Việt Nam nhưng vẫn không tìm được tung tích của vợ con.

Bị ám ảnh bởi những cảnh bi thương, tàn khốc của chiến tranh và tình cảm bị mất mát, chia lìa nên con trai bà Susan buồn rầu, thất vọng, bị trầm cảm rồi tự sát. Bà đưa hình con trai chụp với người vợ Việt và đứa con. Tấm hình úa vàng theo năm tháng, nhưng người thì thấy rất thân quen… Nam bàng hoàng, sửng sốt:

– Trời ơi, Hồng và thằng Đông đây mà! Hồng cũng có tấm hình này!

Nam nói với bà Susan trong cơn xúc động:

– Người… trong hình này bây giờ là vợ của tui, “boy” này là con của tui…

Bà Susan không thể tin, bà hỏi lại:

– Anh nói gì?… anh biết người trong hình này à? Tấm hình mà con tôi luôn mang theo để tìm kiếm vợ con ở Việt Nam.

Nam vội hỏi:

– Có phải con trai bà tên “Đê” không? (Hồng hay nhắc tên David gọi tắt là Dave).

Xem thêm:   Charlie ngày ấy & Charlie bây giờ

Giọng bà Susan run rẩy…

– Đúng rồi! Nó là David Thompson.

o O o

Người ở xóm gọi Đông là “thằng cu Đen», họ không hề biết tên của nó. Vì đói ăn, nó ốm nhom như cây tre miễu. Nó luôn an ủi, binh vực má dưới sự khinh rẻ, cười chê của bà con lối xóm và những lời chửi bới của dì Ba, dì Tư và cậu út. Từ ngày có chú Nam đánh đuổi gã Tài mỗi khi say xỉn tới kiếm chuyện, Đông thấy thương chú như cha.

Từ nào tới giờ nó đâu biết cha nó là ai, chỉ nghe người ta mắng nhiếc, xua đuổi vì nó là con lai, con “thằng Mỹ ác ôn”! Nó đâu biết lai là gì, ác ôn là sao (?!), tâm hồn và trái tim bé bỏng của nó chỉ muốn được yêu thương, che chở. Lúc còn bé đứng xớ rớ trước cửa nhà người, ai cũng xua đuổi nó “Ê, thằng Đen kia! cút ra khỏi sân nhà tao!”… “Mấy đứa bay, không được chơi với thằng mọi Đen nghe chưa!”… Ngay cả vào trường học nó cũng bị tẩy chay, bị xa lánh không đứa nào muốn chơi với nó trừ con nhỏ Hậu.

Lớn lên ở Mỹ, Đông tình nguyện vào quân đội. Sau một thời gian phục vụ, nó trở lại trường học. May mắn, nhờ cha dượng, nó gặp được bà nội ruột. Nội khuyên nó cố gắng học hành, không thích nó cầm súng, vì chiến tranh đã gieo rắc quá nhiều đau thương với chia ly và mất mát. Đông nghe lời nội, nó chăm chỉ học. Đông tốt nghiệp là một chuyên viên về “Thống kê và phân tích dữ liệu” (Data Analyst). Bây giờ, tên của nó là Don Nguyen Thompson.

Đông thường bâng khuâng thương nhớ về quê mẹ, với những người dân hiền hòa, mộc mạc như bà ngoại, ông Tư Thới, Dì Hai Lựu (má của Hậu), cha dượng và má… những người thương nó từ thời thơ ấu đầy cơ cực, tủi sầu.

Xa quê, người mà Đông thương nhớ tha thiết nhứt là Hậu, nhỏ hơn nó hai tuổi, ở chung xóm, học chung lớp. Đám bạn thường dè bỉu: “Cái thằng Đen nhìn phát ớn mà con Hậu nó mê!”. Vậy mà bây giờ đứa nào cũng «mê» được chồng cưng chiều như con nhỏ Hậu. Đúng là duyên lành trời cho.

Xuân đến, hoa mai hoa mận nở, Đông đưa bà nội về quê ngoại, ăn Tết và cưới vợ. Người quen biết gặp lại đều sửng sốt vì dòng đời “hoán chuyển”, nó đã “hóa thân” không còn là một đứa con hoang, con lai nghèo khổ nữa, mà là một ngoại kiều xin cưới vợ Việt.

Quê ngoại có nhiều đổi thay,… tiền má gởi về, bà ngoại và mấy dì, cậu út không còn sống nghèo khổ, nhờ xuất cảng “bánh tráng phơi sương”. Người ta cũng thay đổi nhiều, ngay cả những quan niệm, góc nhìn về “con lai” cũng khác trước. Không còn phân biệt “dị chủng” da trắng, da vàng hay da đen… Không còn thù ghét, tẩy chay vì là ngoại bang hay đế quốc.

Bây giờ, những đứa con lai lại là niềm vui, niềm hạnh phúc chan hòa của những mối tình “dị chủng”.

Tình người, tình yêu thương không có biên giới, nó là một thứ ngôn ngữ mà con tim nào cũng có thể nói được.

GVV