Tháng Tư đây là Tháng Tư Đen 1975 khi Miền Nam Việt Nam bị “trời sập”! Lúc ấy, tôi mới 9 tuổi nhưng những ký ức vẫn còn đậm trong trí óc dù gần 50 năm đã trôi qua.

Kim Loan làm MC trong đêm văn nghệ tưởng niệm Tháng4 Đen tại Edmonton, Canada.

Trong khi gia đình bác ruột và chú ruột tôi chạy ra Bến Bạch Ðằng xuống tàu Trường Xuân thì gia đình tôi lại chạy loạn trong thành phố. Vì nhà tôi gần cửa ngõ sân bay, xung quanh là các căn cứ quân sự, công xưởng của VNCH và kế bên vùng “xôi đậu” An Phú Ðông, nên phải kéo nhau vào Ngã Bảy, chung cư Ngô Gia Tự, tá túc nhà người quen. Tưởng đâu sẽ an toàn hơn, nhưng ban đêm khi lũ trẻ chúng tôi nằm chồng chất bên chiếc giường trong nhà thì người lớn ngồi ngoài hiên, đếm từng đốm hoả châu rơi, vọng tiếng đại bác hoặc tiếng súng lẻ loi, chả biết của “bên nào”.

Hai ngày sau, chúng tôi lại khăn gói trở về nhà. Ðường sá lúc này khá hỗn loạn, từng dòng người ngược xuôi, hối hả, chắc họ cũng như chúng tôi, đi thì đi, chẳng biết sẽ về đâu. Dọc đường thỉnh thoảng có vài xác người, đây đó những bộ đồ lính trận, chiếc nón sắt nằm bơ vơ.

Về đến xóm, cảnh tượng buồn thiu, nhà nào cũng khép cửa im lìm vì chạy loạn chưa về. Mấy con gà con vịt lang thang đi tìm chuồng, có con chó nhà ai đứng ngơ ngác, đôi mắt buồn diệu vợi. Chúng tôi mệt nhoài và ngủ vùi cả đêm dài. Sáng hôm sau, tôi nghe tiếng ồn ào ngoài cửa, vội chạy ra xem thì thấy hàng xóm đang vây quanh một chiếc xe Jeep phủ cành lá có hai “bộ đội gái”, tóc thắt bím, đội nón cối, ngồi trên xe. Tôi cũng hoà vào đám đông hiếu kỳ. Bà con tò mò hỏi han hai “vật thể lạ” .

Dẫu còn là con nít ngây thơ, nhưng nghe tiếng thở dài của người lớn trong nhà, nhìn những ánh mắt thất thần lặng lẽ của chòm xóm, tôi cũng mơ hồ biết rằng, tai hoạ đang ập đến Miền Nam thân yêu.

Thế là từ đó, từ chuyến vượt biển đầu tiên của Tàu Trường Xuân, cũng như những chuyến bay Babylift Operation, và các trực thăng đưa đoàn người di tản khỏi Sài Gòn, đã khởi đầu cho cơn sóng vượt biển, vượt biên, thoát khỏi chế độ Cộng Sản.

Theo cuốn sách “Running On Empty” của nhiều tác giả (Michael J Molly, Peter Duschinsky, Kurt F. Jensen, Robert J Shalka) được chuyển qua Việt Ngữ bởi Giáo Sư Ðàm Trung Phán với tựa “Còng Lưng Vẫn Gánh” thì chương trình di tản đã bắt đầu từ Tháng 3/ 1975, các nước Phương Tây rục rịch đưa công dân và thân nhân của họ ra khỏi Việt Nam.

Khi Miền Nam Việt Nam bị Cộng Sản cưỡng chiếm, phương Tây đứng đầu là Mỹ ra tay giúp chuyện di tản, nhưng họ không thể ngờ, sau đó làn sóng ra đi vẫn tiếp tục (trong đó có cả chương trình bán chính thức của chính quyền CSVN bán cho người Việt gốc Hoa để lấy vàng bạc). Chính quyền “bên thắng cuộc” khiến người dân bỏ của chạy lấy người, đỉnh điểm là năm 1979-1980 mỗi tuần có hơn 20,000 thuyền nhân cập bến các trại tỵ nạn, một con số khổng lồ, không có dấu hiệu ngừng lại, nên các nước tạm dung thuở ấy đã ngăn cản rất nhiều con tàu vượt biên, không cho vào đất liền, có khi họ còn dùng súng bắn để xua đuổi người tỵ nạn đáng thương.

Xem thêm:   Của rẻ

Chúng ta đã nghe nhiều câu chuyện kể, đầu thập niên 80s những chuyến tàu đến Mã Lai, Thailand được cho vào đảo nghỉ ngơi, cho thêm lương thực, rồi đuổi ra biển, nhưng họ vẫn kiên trì tiếp tục tìm qua đảo khác, rồi phá tàu cho chìm ngoài biển, lúc đó mới được kêu cứu cho vào trại tỵ nạn.

Thế đấy, lẽ ra các trại tỵ nạn đã đóng cửa từ lâu, nhưng chúng ta vẫn cứ liều chết ra đi, nhiều câu chuyện hãi hùng tang thương trên đường vượt biển đã làm rúng động thế giới phương Tây, người bản xứ bắt đầu ủng hộ Boat People, và các nước Phương Tây lại phải tiếp tục …Còng Lưng Vẫn Gánh người tỵ nạn!

Cuối cùng, đến ngày 14/ 3/1989, Cao Ủy Tỵ Nạn ký quyết định đóng cửa trại tỵ nạn, khép lại lòng nhân đạo bằng chính sách thanh lọc thuyền nhân, những ai đậu thanh lọc sẽ được đi định cư, những người rớt phải hồi hương về Việt Nam, và các trại tỵ nạn bị xóa sổ khoảng năm 1996-1997. Tính từ thời điểm 1975, thì Cao Ủy Tỵ Nạn đã cưu mang thuyền (bộ) nhân Ðông Nam Á (mà đông đảo nhất là người Việt) hơn 20 năm trường.

Hồi chuyến tàu của tôi đến trại  Panatnikhom tháng 1/1990, đã hoảng hốt khi biết trại mang tên “Trại Cấm” vì Cao Ủy đã đóng cửa các trại tỵ nạn, chúng tôi không được xem là người  tỵ nạn nữa, mà phải qua cuộc thanh lọc của nước tạm dung. Lúc đó, nhiều người đã trách móc, nguyền rủa các nước Phương Tây tàn nhẫn, không cứu người tỵ nạn.

Cá nhân tôi hoàn toàn đồng ý với Cao Ủy Tỵ Nạn về việc đóng cửa trại tỵ nạn, không phải vì tôi sau đó may mắn đậu thanh lọc, nhưng tôi đã thấu hiểu: nếu không cương quyết ngăn chặn, thì đến giờ phút này (năm 2023) chắc chắn sẽ vẫn còn những con thuyền ra khơi tìm tự do, chạy trốn “thiên đường XHCN”, không những từ Miền Nam mà cả Miền Bắc Việt Nam, trong khi đó Cao Ủy còn phải lo cho những người tỵ nạn khác trên thế giới, đâu thể gánh mãi tỵ nạn Việt Nam khi mà cuộc chiến đã chấm dứt mấy chục năm.

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (04/10/2025)

Với tỷ lệ đậu thanh lọc rất ít ỏi, trên dưới 10% thì số lượng người phải hồi hương về Việt Nam rất đông. Tuy nhiên, ở khắp các trại tỵ nạn, nhiều người vẫn ở lại trại, biểu tình, tuyệt thực, mổ bụng lấy máu viết huyết thư nhưng tiếc thay, họ vẫn bị trói buộc tay chân, áp giải ra phi trường về Việt Nam.

Vậy là tàn phai giấc mơ Mỹ Quốc mà biết bao người khi bước lên tàu vượt biển đều ước mơ. Thế nhưng vẫn có những người không nản lòng, bền bỉ khiếu nại, đợi chờ từng ngày, từng tháng, kéo dài hàng chục năm trời như hai trường hợp sau đây, tôi quen biết thân thiết hồi ở chung trại, cuối cùng được đến Mỹ thỏa lòng khao khát tự do.

Người đầu tiên, anh Nguyễn Duy Tr., là chồng của cô bạn thân trong nhóm tỵ nạn của tôi lúc bấy giờ. Anh chị gặp nhau và yêu nhau ở trại, rồi cả hai cùng bị rớt thanh lọc, khi chị mới sanh đứa con đầu lòng.

Sau đó, chị ôm đứa con trai chưa đầy năm và cái bụng mới có bầu lần nữa về nước, anh ở lại khu biệt giam, tuyệt thực, mổ bụng chống đối hồi hương, vào ra bệnh viện cấp cứu mấy lần, cuối cùng vẫn bị cưỡng bách về Việt Nam.

Về nhà, anh chị buồn quá, đẻ …thêm đứa nữa, lao vào buôn bán làm ăn kiếm sống, khá chật vật cho một gia đình với năm miệng ăn. Bên cạnh đó, anh liên lục lên văn phòng Toà Ðại Sứ Mỹ tại Sài Gòn kiện cáo, nộp đơn khiếu nại. Lý do vì gia đình anh thuộc diện “dân hư”, vượt biên và hồi hương, bản thân anh có trong “hồ sơ đen” vì từng chống đối chương trình cưỡng bách hồi hương và đặc biệt, anh là thành viên tích cực của tổ chức “Việt Nam Quốc Dân Ðảng” trong trại tỵ nạn, nên cả gia đình anh đã bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam gây khó dễ khi trở về hoà nhập cuộc sống. Nhờ cố gắng, không từ bỏ hy vọng, suốt mười mấy năm trời, “lên bờ xuống ruộng” với Văn Phòng Toà Ðại Sứ Mỹ, kết quả là cả gia đình đã được phỏng vấn, được chấp thuận qua Mỹ định cư diện “chính trị đặc biệt” giữa năm 2012.

Gia đình anh hiện đang ở Sacramento, chị đi làm Nails cho tiệm của một người bà con. Anh vì sức khoẻ yếu sau mấy lần mổ bụng ở trại, nên chỉ đi làm part time. Thằng con trai lớn, ngày xưa được sinh ra ở trại tỵ nạn, vừa ra trường về ngành Cảnh Sát, đứa con trai kế cũng sắp tốt nghiệp College và cô con út đang học Ðại Học. Cuối tuần, anh chị dành thời gian lái xe ra vùng ngoại ô, ngắm cảnh, câu cá, nghỉ ngơi hoặc chăm lo vườn tược rau trái sân nhà.

Xem thêm:   Cánh chim đầu đàn của "Biệt đội Thiên Nga"

Trường hợp thứ hai, anh Vũ Hoàng H., hiện là một trong những nhân vật tích cực hoạt động chính trị vùng Nam California, đại diện Khối 8406 Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam.

Cũng giống như anh Tr. vừa nêu trên, Hoàng H. cũng bị liệt kê vào nhóm cứng đầu, bị biệt giam tại trại Sikiew Thailand vì nhiều lần tuyệt thực chống hồi hương, nhưng khác với anh Tr., khi Hoàng H. trở về Việt Nam đã lập tức nằm trong “black list” của chế độ Cộng Sản, nhất cử nhất động của anh luôn bị rình rập theo dõi. Thế nên, hai năm 2006 -2008 Hoàng H. đã bị bắt vào tù với tội danh “hoạt động lật đổ chính quyền”, và sau nhiều cuộc vận động, can thiệp từ hải ngoại với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Hoàng H. và gia đình được định cư qua Mỹ theo diện “tỵ nạn chính trị đặc biệt” năm 2010.

Ngoài hai trường hợp trên, may mắn thay, trước đó khi trại Sikiew sắp đóng cửa, đại diện Tòa Ðại Sứ Mỹ đã vào trại khuyến khích người tỵ nạn hồi hương để được xét duyệt qua Mỹ từ Việt Nam. Rất nhiều người đã nghe theo lời kêu gọi này, và quả thật “Mỹ nói là làm”, người Việt tỵ nạn trở về, được kéo theo cả gia đình thân nhân, con số lên tới hàng ngàn người, đã hạnh phúc bước lên máy bay đến Mỹ Quốc theo chương trình rất nhân đạo của Mỹ mang tên ROVR (Resettlement

Opportunity for

Vietnamese Returnees).

Quả là happy endings, nhưng thật ra, ít ai biết được còn một số người tỵ nạn Việt Nam đã âm thầm trốn khỏi trại Sikiew để khỏi bị cưỡng bách về nơi họ đã dứt áo ra đi. Những người này, bôn ba ra ngoài Thái, được sự giúp đỡ của Cha Peter Namwong, một ân nhân của người Việt tỵ nạn ngay cả khi còn trại cho đến khi đóng trại. Cha cưu mang những người này một thời gian, gửi gắm họ nơi những nhà con chiên người Thái, giới thiệu việc làm (chui), khi đủ sức tự lập, họ tỏa đi khắp nơi đến các vùng lân cận, đến Bangkok, tiếp tục đời lưu vong stateless, với mong ước một ngày nào đó đến được nước thứ ba. Cho đến nay, năm 2023, số người Việt lưu vong tại Thailand vẫn là vết thương nhức nhối, với lời thề không chung trời Cộng Sản, họ vẫn tha phương cầu thực trên xứ Thái, và Giấc Mơ Mỹ Quốc, kể từ ngày 30/4 Ðen năm nào, càng trở nên xa vời, mờ mịt.

Vì ai, vì đâu mà nên nỗi này, chúng ta phải rời bỏ quê Cha đất Mẹ sống tản mát trên các quê hương thứ hai, để mỗi năm khi mùa Tháng4Ðen trở về, những ký ức đau buồn lại trỗi dậy, như mới vừa hôm qua!?

KL

Edmonton, tháng 4/2023