Một số rất ít người có tiền vốn sẵn, thường đầu tư kiếm tiền nhanh bằng những việc kinh doanh đỏ đen. Phần còn lại đầu tư đất đai với cách nhìn đúng và vận may đã đem lại cho họ nhiều sản nghiệp to lớn.

Trường đua ngựa sớm nhất ở Sài Gòn tại Đồng Tập Trận (Ảnh: Bưu Thiếp)  

Nói chuyện người Pháp làm giàu bằng trò đỏ đen từ những năm đầu thế kỷ 20 tại xứ ta phải kể đến Jean Duclos và Monpezat. Hai ông này chuyên về đầu tư cá ngựa và tổ chức các cuộc đua ngựa kiếm tiền. Bài bạc thuở đó chưa được thịnh hành các môn bài, ngoại trừ trò hốt me của dân ta hay mạt chược của dân Tàu. Ngựa đua, thuở đó cũng chưa xuất hiện giống ngựa to con cao lớn phi như thần mã, trong khi các giống ngựa to lớn này từng làm các trường đua bên châu Âu đầy nghẹt người xem. Trường đua ngựa ở Hà Nội hay ở Đồng Tập Trận ban đầu chỉ toàn những chú ngựa cỏ bản địa nhỏ con chạy không nhanh, không hấp dẫn, cần phải được thay thế bằng ngựa giống nước ngoài. Thấy được cơ hội này, Duclos và Monpezat bỏ tiền đầu tư nhập giống ngựa Ả Rập cao to phục vụ cho trường đua Hà Nội, rồi sau đó đưa vào Sài Gòn. Các trận đua ngựa được tổ chức liên tục hằng tuần vừa giúp vui các quan chức binh lính Pháp giải trí vừa thu được khối tiền từ việc ham mê cá cược của người bản xứ.

Tuy nhiên, đáng kể hơn hết là 4 bộ mặt doanh nhân thuộc hàng có máu mặt và rất đặc biệt những năm đầu thế kỷ 20. Những người này đầu tư vào đất đai hoang hoá làm đồn điền trồng lúa ở các tỉnh miền Tây và trồng cà phê, cao su miền Đông Nam bộ.

Để tăng cường khai khẩn đất mới nhằm tăng sản lượng xuất cảng lúa gạo, năm 1878, đô đốc Lafont chi giảm bớt thuế điền để khuyến khích người dân khai khẩn đất hoang, nhất là những vùng đất phèn mặn quanh năm, không khai thác sử dụng được. Các cấp chính quyền tỉnh cho đào kênh, xả phèn rửa mặn nhằm thu hút người dân các vùng khác di cư đến khai hoang lập nghiệp. Bên cạnh những người dân đen tha phương đến vùng đất mới khai khẩn đất canh tác và sinh sống, thì có những người bản địa hoặc người Pháp có tham vọng lớn, khai khẩn những vùng đất cò bay thẳng cánh. Năm 1880 diện tích đất nông nghiệp ở miền Tây là 522,000 mẫu nhưng đến năm 1900 diện tích tăng lên 1,175,000 mẫu. Trong 20 năm kích thích khai khẩn, con số xuất cảng gạo từ 500,000 tấn tăng lên mức 750,000 tấn.

Trường Đua ngựa Phú Thọ xây vào năm 1939 thu hút nhiều dân bản xứ lao vào cá cược (Nguồn: Manhhaiflickr)

Trong giai thoại các tỷ phú Sài Gòn xưa kể đến người thứ nhất là Mézin, có gốc nông dân ở miền Nam nước Pháp, nên khi sang Sài Gòn đã nhắm đến việc khai khẩn đất đai, lập đồn điền. Mézin không thích kinh doanh tại Sài Gòn, mặc dù nhà cửa, vợ con ông đều ở thành phố này. Người ta kể lại rằng, khi mới đặt chân lên đất Sài Gòn, Mézin là một người tay trắng, sống khá vất vả trong những ngày mò mẫm tìm cơ hội kinh doanh. Nhờ khéo léo, một phần nữa nhờ sự quen biết nhiều người Pháp trong ngành ngân hàng và các viên chức chính quyền, nên Mézin đã có một kế hoạch táo bạo: khai phá vùng đất hoang vu thuộc tỉnh Cần Thơ để lập đồn điền. Vay được một số tiền kha khá, Mézin dựng lên một đồn điền mang tên “Domaine de L’Ouest” (Đồn điền miền Tây). Đất miền Tây Nam bộ thời đó còn hoang hoá nhiều, đồng chua cỏ dại, rất khó khai thác. Bằng những tính toán đúng, bằng tiền vốn bỏ ra, nên chỉ vài năm sau, đồn điền của Mezin khá bề thế. Nó trở thành một trong vài đồn điền trồng lúa lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ.

Xem thêm:   Rory!

Người thứ hai cũng làm giàu nhờ khai khẩn đất hoang, đó là Pháp kiều Remy Gressier. Ông ta là một nhà kinh doanh tay trắng lúc khởi nghiệp. Khi vay được vốn, Gressier nhắm đến vùng đất phèn mặn của xã Phú Lộc tỉnh Sóc Trăng. Khi đó vùng này chính quyền đã cho đào nhiều kênh rạch chằng chịt tháo mặn, xả phèn, cải tạo đất giúp cho đồng lúa tốt tươi, năng suất tăng cao. Gressier thắng to liên tục nhiều chục vụ, trở thành triệu phú nức tiếng, làm cho những Pháp kiều đồng hương với ông ta phải ganh tỵ.

Lúa được người Hoa thu mua trước đây từ những nông dân và điền chủ người bản địa, lợi nhuận từ xuất cảng gạo người Hoa thu rất nhiều. Điều này khiến chính quyền Pháp phải can thiệp. Chính quyền tạo mọi điều kiện dễ dàng cho người Pháp muốn làm ăn về ngành nông nghiệp. Các điền chủ người Pháp, đầu tư trồng lúa riêng và có cách chế biến gạo và xuất cảng riêng cho mình. Người Pháp ủng hộ bằng mọi cách không để giới thương buôn người Hoa thao túng nữa. Trong số 16 các điền chủ lớn đều bán lúa cho nhà máy xay lúa của người Pháp gồm có cả điền chủ người bản xứ. Ở tỉnh Sóc Trăng vào năm 1933, sổ bộ ghi nhận các điền chủ lớn có trên một ngàn mẫu ruộng gồm: Bernard Labeste 6,500 mẫu, Gressier 4,088 mẫu, Huỳnh Thị Ngọ 2,271 mẫu, Lê Văn Trước 1,939 mẫu, Nguyễn Hữu Trinh 2,500 mẫu, Lâm Quang Chiêu 1,870 mẫu, Trương Chánh Viên 1,200 mẫu… Riêng ông Gressier ngoài trồng lúa trên đồn điền của mình, ông còn tự lập một nhà máy xay lúa tại Sóc Trăng.

Một hình ảnh đồn điền cao su An Lợi ở miền Đông Nam bộ do người Pháp khai thác (Ảnh: Tư Liệu)

Người Pháp thứ ba lên ngôi phú hộ tại Sài Gòn là Fernand Lafon. Ông này cũng không phải là nhà giàu khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Khi có người giới thiệu với ông ta khu đất trống nằm ở tứ giác Verdun (Cách mạng Tháng 8 ngày nay) – Colombier (Hồ Xuân Hương) – Legrand de la Liraye (đường Phan Thanh Giản, nay là Điện Biên Phủ) và cả khu vực trường Nữ trung học Áo tím (Gia Long), Fernand Lafon đã không ngần ngại bỏ tiền ra mua ngay với giá 50 xu Đông Dương/m2. Thời đó toàn bộ khu ấy chưa có nhà cửa. Fernand Lafon đã phân ra nhiều ô, chủ yếu là để xây cất biệt thự, một phần xây thành nhà, một phần bán cho người khác xây dựng những ngôi biệt thự loại sang trọng nhất Sài Gòn. Chẳng mấy chốc ông ta giàu to. Được đà, ông ta mở rộng phạm vi kinh doanh địa ốc, chuyện xây dựng các biệt thự bán lại cho người Pháp hoặc các triệu phú mới nổi người bản địa.

Xem thêm:   Hạnh Châu

Đó là thời gian của thập kỷ đầu thế kỷ 20, chính quyền thành phố chuẩn bị thành lập quận 3, so với thời giá khi đó của một cuốc xe kéo trong quận 1 là 10 xu. Báo Xây Dựng Mới tháng 10-11 năm 1957 của tác giả Đỗ Viên về chuyện mua nhà ở Sài Gòn cho thấy ngay tại thời điểm này, ở quận 3 và một số đất trống ở quận 1 có giá 500 đồng/m2. Trong khi đó, hồi năm 1953 đất xây dựng trên đường Mac Mahon (Công Lý) vẫn còn nhiều mảnh đất trống rộng cả ngàn mét vuông giá chỉ 100 ngàn đồng/m2. Lô đất rộng 300 mét vuông có thể mua với giá 30,000 đồng nhưng tiền cất nhà phải đến 70,000 đồng. So sánh từ năm 1953 đến 1957 trong 4 năm giá đất tăng 500%.

Đồn Điền cà phê do Pháp trồng sớm nhất ở xã Phong Lệ (Cẩm Lệ) tại Đà Nẵng (Ảnh: Tư liệu)

Ngoài 3 bộ mặt tiêu biểu nói trên, còn có một người nữa nên nhắc lại ở đây, cho đủ bộ tứ Pháp kiều, đó là Vidal. Ông ta vốn trước đó là sĩ quan hải quân Pháp, hưu non và bám rễ tại đất Sài Gòn để làm ăn như mọi người bình thường khác. Ông nay hoà nhập với phong tục người địa phương rất nhanh: tập ăn trầu, mặc áo dài khăn đóng, học tiếng Việt và lấy vợ Việt. Ông này làm ăn lương thiện, có lúc được dân làng cử làm hương cả – một chức sắc được tôn kính nhất trong làng. Trước khi qua đời, Vidal đã yêu cầu được mai táng theo nghi lễ của một tín đồ Phật giáo, thay vì theo đạo Thiên Chúa giáo như hầu hết những người Pháp khác.

Xem thêm:   Xe ba gác đời mới

Đây chỉ là vài ba tên tuổi người Pháp làm giàu ở xứ ta. Có thể họ là người làm ăn lương thiện nhưng cũng có người cậy nhờ chính quyền khi có cơ hội, nhất là trong thời kỳ khai khẩn đất hoang. Chẳng hạn như một người tên Guéry vận động chính quyền khi đào con kênh Bassac-Cái Lớn (kênh Xà No) nối ngọn rạch Cần Thơ vào rạch Cái Tư, ông ta được Toàn quyền Doumer cấp không cho một lô đất 2,500 mẫu tại làng Nhơn Nghĩa, trong khi đó dân đen bản xứ lại không biết, cứ theo luật định bỏ công phá rừng, phát cỏ, cắm ranh hy vọng trở thành chủ mảnh đất nhỏ để cày cấy làm ăn. Cuối cùng công khai phá trở thành công cốc, người hưởng lợi lại là người Pháp có thế lực.

TN