Lời Giới Thiệu: Chu Lynh, sinh năm 1945 tại miền Bắc. Di cư: 1954; Sĩ quan QLVNCH. Định cư tại Mỹ: 1995. Đồng sáng lập Vietnam Film Club với Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích tháng 9 năm 2010. Sở thích: Làm phim tài liệu về những biến cố khúc quanh của lịch sử từ 1945 đến nay. Không phải là nhà văn nhưng thích viết truyện ngắn về quê hương.

“Em phải sống” là truyện mới nhất của anh, lần đầu tiên góp mặt với Trẻ.

2 kỳ – kỳ 2 (hết)

Tôi đoán anh đã ngồi nhìn tôi lâu lắm. Chuyến về phép nào của anh cũng ngắn ngủi và không khi nào tôi được báo trước. Trước khi tôi đưa hai tay quàng lên cổ anh, thì anh cúi xuống. Tôi nhắm mắt chờ đợi, nhưng anh chỉ nhìn tôi một lúc rồi đưa tay luồn vào mái tóc rối tung của tôi. Anh thường làm cử chỉ này với tôi trước khi nói điều gì đó. Hai đứa nhìn nhau thật lâu, mắt tôi ươn ướt.

Một lúc sau anh mới nói:

– Anh có ba ngày phép dành cho em.

Tin vui bất ngờ làm tôi bật dậy, bắt anh dìu ra phòng khách. Cơn sốt bỗng biến mất. Tôi không nói một lời, vùi đầu vào lòng anh, im lặng nghe anh nói, cảm giác được che chở khi năm ngón tay anh tiếp tục lùa vào mái tóc tôi.

Hôm đó anh cứ lẩn quẩn bên cạnh tôi. Không như những lần về phép trước đây, anh thường dẫn tôi đến cây số 14 đi bộ dọc con suối, lên thác nhà đèn chụp hình, đến Buôn Hô quen thuộc uống rượu cần, nói tiếng Pháp với mấy người Thượng lớn tuổi, hay thỉnh thoảng vào Châu Sơn thăm ba mẹ tôi.

Sáng hôm sau, anh liên lạc với một người bạn trong phi trường L19 xin quá giang hai chỗ về Nha Trang. Tôi thấy anh khó hiểu, nhưng vẫn ngoan ngoãn theo anh. Ði đâu cũng được, chỉ cần có anh bên cạnh, người đàn ông thâm trầm, lắm bạn bè mà lại cô độc, gắn bó với gia đình mà vẫn lẻ loi, nhiều gian truân nhưng lại thích khôi hài. Thật bất ngờ, anh Hai không phản đối chuyến đi của tôi. Tại anh muốn chiều tôi hay anh và anh Lân đều là những người lính quý cái hiện tại hiếm có này?

Trước khi đến Khánh Dương, chiếc trực thăng bay vào một thung lũng hẹp giữa hai dãy núi. Tôi sợ hãi vì phi công lượn quanh co theo sườn núi đến chóng mặt. Anh Lân cho biết đó là chuyến bay cuối ngày về Bộ Chỉ Huy sau một ngày quần thảo trên rừng Quảng Ðức. Anh nói tụi Mỹ ngán phi công Việt Nam gan lì. Họ thường liều lĩnh cứu phi công Mỹ, trong khi tụi Mỹ cần tới cả phi đội. Lần đầu tiên tôi phiêu lưu vào thế giới người lính trận. Liếc nhìn phi công rồi nhìn anh Lân, tôi thực sự thấy mình quá bé nhỏ trước những người lính ngang tàng coi thường sinh tử.

Ðến Nha Trang thì trời đã về chiều. Nha Trang không có không khí chiến tranh như Ban Mê Thuột. Màn đêm đã phủ lên thành phố, nhưng đằng sau cái bình yên này, có gì đó đang âm thầm chuyển dịch. Tình yêu của chúng tôi đang nằm giữa chiến tranh và bất ổn, nhưng tình yêu vẫn cứ lớn dần.

Hôm nay với tôi, giây phút bên anh lớn hơn bất cứ điều gì chung quanh. Lần đầu tiên tôi đi xa với một người đàn ông. Ngồi trên chiếc cyclo chầm chậm trong buổi chiều êm ái của thành phố biển, tôi nói chậm rãi bên tai anh là tôi không thể sống xa anh được. Anh nhìn thật lâu vào mắt tôi rồi hôn lên môi tôi nóng bỏng. Người tôi mềm đi trong vòng tay rắn chắc của anh. Bác xích lô dường như đạp xe chậm lại. Tôi nói nhỏ:

– Chút nữa cho ông nhiều nhiều tiền nghe anh!

– Nhất quỷ nhì ma thứ ba là… em.

Thay vì nhéo anh, tôi lại rúc đầu vào lòng anh hưởng hạnh phúc đầu đời của đứa con gái hư hỏng, thật sự muốn hư hỏng bên người lính đang bảo vệ đất nước và bảo vệ đời tôi.

Hai đứa tắm biển một lúc rồi về khách sạn.

Nằm bên anh trong căn phòng nhìn ra biển là một thế giới riêng tư tôi chưa bao giờ nghĩ đến, một hạnh phúc trọn vẹn chưa bao giờ gặp. Hai thân xác quyện vào nhau, truyền cho nhau giòng nước tình yêu chầm chậm chảy vào từng đường gân thớ thịt. Tôi bằng lòng thay đổi cuộc đời cô nữ sinh ngơ ngác để bước qua tận hưởng một thế giới tình yêu lạ lùng khiến tôi có thể chết đi trong vòng tay bảo bọc của anh.

Xem thêm:   Tự thú

Lúc này tôi không muốn nghe anh kể chuyện chiến trường, chỉ muốn nghe anh kể về tuổi thơ của anh. Những ngày thơ ấu của anh ở trường nội trú, những năm lang thang nhiều nơi tìm kế mưu sinh để tiếp tục học hành, hay quãng đời quân ngũ lăn lộn theo chiến tranh.

Anh nói anh không có giấc mơ nào, cũng không thể làm gì cho riêng anh trong những ngày chiến trận sôi bỏng này. Tôi nhận ra tình yêu của chúng tôi giá trị như thế nào khi gạt ra những giấc mơ hay dự tính, để yêu nhau thật trọn vẹn và chấp nhận những gì xảy đến. Không biết tôi đang lãng mạn hay đang thách thức cuộc đời khi cho anh tất cả, thân xác này và cả sự lo lắng mạng sống của anh ngoài mặt trận.

Chiến tranh như bóng ma lởn vởn ngày đêm làm chùng lại mọi toan tính. Chúng tôi không có chuẩn bị nào cho ngôi nhà tương lai. Chúng tôi chỉ biết yêu nhau và yêu nhau. Anh cũng chưa có dịp đưa tôi về giới thiệu gia đình anh tại Sài Gòn. Cũng nhờ anh chị Hai mà cha mẹ tôi không hối thúc chuyện hôn nhân.

Một buổi sáng Chủ Nhật anh Lân về phép rồi cùng tôi đi lễ nhà thờ Châu Sơn. Sau thánh lễ, quỳ dưới tượng Chúa, chúng tôi có một ý nguyện chung là giao phó tình yêu cho đấng Tối Cao định đoạt. Tôi có những cảm giác khác nhau sau lời cầu nguyện. Lòng tin vào sự che chở của Chúa, hạnh phúc về tình yêu anh dành cho tôi, nhưng vẫn lo âu cho những ngày sắp tới về số phận người lính trận giữa bom đạn gầm thét không biết ngày nào chấm dứt.

Thắm Nguyễn

oOo

Anh Hai lấy chiếc Honda 67 chở tôi chạy như bay khi nghe nhân viên hậu cứ báo trực thăng đang đưa thương binh về Trung đoàn.

Anh Lân có tên trong danh sách thương binh. Tôi không khóc nhưng nước mắt cứ trào ra.

– Nhanh lên anh Hai, em nóng ruột lắm! Anh Lân bị thương ở đâu? Sao không đưa vào bệnh viện quân y mà đưa về hậu cứ?

Anh Hai phóng xe vù vù mà tôi cứ hối thúc anh chạy nhanh hơn nữa.

Ðến doanh trại, đã thấy một chiếc trực thăng trên bầu trời đang giảm tốc độ. Trực thăng quạt mạnh vào những mái tôn, thổi tung bụi mù trong lúc đáp xuống. Tôi nhìn thấy hai người lính nhanh chóng lôi từng chiếc băng ca ra khỏi trực thăng. Máy bay vụt lên không, lao đi về phía phi trường Phụng Dực.

Năm chiếc băng ca được đưa vào một nhà kho trống. Hai anh em tìm anh Lân giữa năm bao đựng xác. Tôi hiểu tại sao máy bay không đáp xuống quân y viện. Anh Hai kéo tôi đến một bao xác, rồi kéo dây mở ra. Hai vũng máu khô trên thân thể người lính. Không phải anh Lân. Nhưng khi thấy bảng tên Lân trên túi áo lem luốc máu, tôi nhìn vào đôi mắt dường như còn hé mở của anh, tôi thét lên. Anh Lân!

Mắt tôi mờ đi. Tôi gục xuống ngực anh như một cái xác rồi không biết gì nữa.

Tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm giữa những thương binh trong Quân y viện Ban Mê Thuột. Chỗ này không phải dành cho tôi, là chỗ dành cho anh Lân. Anh phải được sống. Anh Hai đang nói chuyện với bác sĩ. Thấy tôi tỉnh lại, anh mừng rỡ, nhưng nỗi buồn thật nặng nề trên khuôn mặt.

– Em cần nghỉ ngơi cho khoẻ lại.

– Không. Em sẽ không bất tỉnh nữa. Em sẽ ở bên cạnh anh Lân, em sẽ làm bất cứ điều gì một goá phụ phải làm. Em muốn về lại hậu cứ.

Anh Lân được liệm vào quan tài đặt trong doanh trại Trung đoàn, nhưng nắp vẫn để hở chờ gia đình anh ở Sài Gòn ra. Trên đầu anh là cây thánh giá, bức ảnh của anh lấy từ album của tôi phóng lớn ra. Hai bên quan tài có hai sĩ quan gác xác đứng nghiêm như pho tượng. Sĩ quan và binh sĩ lần lượt đến thắp nhang, có người nước mắt giàn giụa.

Tôi, cô học trò Thụy Vi, người vợ chưa bao giờ cưới của anh Lân, không khăn tang trên đầu, lễ phép cúi chào đáp lễ từng người đến thắp nhang. Trong căn phòng nghi ngút khói nhang, tất cả đang là những nhân chứng cuối cùng tiếc thương, đau đớn, uất nghẹn về người lính trận Nguyễn Tường Lân đã ngã xuống chiến trường Ðức Lập.

Tôi phải tỉnh táo ở bên anh, thu vào mắt những khoảnh khắc cuối cùng trước khi đưa anh vào lòng đất. Hơn ai hết, tôi hiểu sự hy sinh của anh quá lớn lao như những giòng chữ anh đã viết cho tôi: “Trước khi ngã xuống, người lính phải hiểu rằng họ hy sinh không phải cho một chế độ, cho một số người, mà cho mảnh đất đã sinh ra mình, đã nuôi nấng mình thành người Việt Nam”.

oOo

Xem thêm:   Con nhỏ khờ dễ sợ

Ðại uý Nguyễn Tường Lân mất ngày 25 tháng 9 năm 1971, cùng ngày anh nhập ngũ.

“Chiến trường Ðức Lập, ai sẽ sống sót” bài anh viết như một lời báo trước về số phận của chính anh, hơn là viết cho độc giả.

Ước vọng một mái nhà cho hai kẻ yêu nhau đã tan thành mây khói. Không có hình ảnh hai đứa quỳ bên hang đá cầu nguyện, không còn những lá thư, không có hẹn hò, không bao giờ tay trong tay cho cuộc đời.

Trước khi nằm xuống, anh Lân đã không biết một điều quan trọng. Tôi mang thai trong chuyến về phép cuối cùng của anh. Anh không biết mặt con. Bé Thụy Vân chỉ biết cha mình qua khung hình trên bàn thờ hay qua những chuyện tôi kể.

Anh mất đi, ba mẹ tôi mang vào lòng nỗi buồn đứa con bất hạnh. Khi biết tôi có thai, mọi người có những phản ứng khác nhau. Anh chị Hai là những người nâng đỡ tôi khỏi rơi xuống hố tuyệt vọng. Tôi quyết định nghỉ học tìm việc làm. Với tôi, đứa con sắp chào đời quan trọng hơn mọi thứ. Không có anh để đặt tên cho con, tôi đã ghép tên tôi và bút hiệu của anh thành Thụy Vân để nó mang hình ảnh của ba mẹ nó suốt đời.

Tuổi thanh xuân của anh dành cho chiến tranh, anh chết cho quê hương nơi chiến trường. Nhưng may mắn, anh đã ra đi trước ngày miền Nam mất. Anh thoát khỏi những trại giam tàn độc của quân thù. Anh khỏi nhìn thấy quê hương tan tác sau 75. Anh không phải lênh đênh trên biển cả tìm đường sống.

Anh Hai trong trại tập trung, chị Hai khốn đốn tìm đường mưu sinh vì nhà cửa bị cướp mất. Cũng may cha mẹ tôi còn đất để cày cuốc.

Nhưng hai mẹ con tôi phải rời khỏi mảnh đất này.  Tôi tin anh Lân muốn mẹ con tôi ra đi. Tôi bất chấp mọi can ngăn của gia đình, bất chấp mọi rủi ro trên đường đi. Tôi nói thầm với anh Lân suốt cuộc hành trình bằng đường bộ: “Hãy bảo vệ mẹ con em đến nơi an toàn”.

Cuộc hành trình đầy rủi ro, nhưng tôi tin anh Lân là tấm thẻ hộ mệnh cho hai mẹ con. Sau bảy ngày lẩn trốn trên đất Miên, rồi cuộc băng rừng gian nan qua biên giới Thái Lan, mẹ con tôi đến được trại Panatnikhom.

oOo

Tôi đứng lên đặt tờ báo trở lại trên bàn thờ, bước đến bên cửa sổ, vén màn nhìn ra vườn. Cánh rừng sau khu vườn bây giờ trần trụi chờ bàn giao cho mùa Ðông đang đến gần. Tôi cố tìm bóng anh ẩn hiện đâu đó giữa những thân cây, ước gì thấy anh bước trên khu vườn phủ đầy lá khô tiến về phía tôi.

Hôm nay ngày giỗ thứ hai mươi của anh, cộng với ba năm yêu nhau, tôi vẫn là người vợ không có ngày cưới. Tôi không được là góa phụ chít khăn tang cho chồng. Tôi không có khăn tang may bằng vải trắng. Khăn tang của tôi kết bằng nước mắt và đau đớn. Tôi không ngờ mình đã để tang anh trong lòng đến tận hôm nay, như một goá phụ thủ tiết thờ chồng.

Có tiếng chân bước vào phòng, tôi quay lại. Vân và Quý đã về nhà. Hai đứa vừa đi tham dự buổi hội thảo của AEI tổ chức bên Washington D.C.

– Tụi con về hơi trễ, vì ghé tiệm mua hoa cho ba.

– Hoa đẹp quá. Thắp nhang cho ba đi.

Vân và Quý cùng bước lên cắm hoa vào bình rồi thắp nhang. Nhìn hai đứa đứng yên một lúc trước khi vái lạy, tôi nghĩ đến căn nhà sắp có thêm một đứa con.

Tôi không có gì lo lắng về bạn trai của con gái. Quý là du học sinh, con của một sĩ quan bị kẹt lại Việt Nam vì không đủ điều kiện định cư theo chương trình HO. Học xong là xin ở lại. Quý đang học về Political science. Nó quen con bé trong một thư viện. Chuyện tôi vượt biên suôn sẻ, cuộc sống của hai mẹ con bình yên nơi đất khách quê người, chuyện hai đứa đến với nhau, dường như mọi thứ xảy ra theo một trình tự ai đó đã sắp đặt.

– Mẹ đã nấu cơm rồi. Hai đứa đói chưa?

– Tụi con chưa đói. Quý lên tiếng.

– Qua D.C. có gì vui kể cho mẹ nghe.

Xem thêm:   Tuyết lạnh bên trời

Vân nở nụ cười thật tươi. Con bé luôn luôn cười với bất cứ ai trò chuyện với nó.

– Sau hội thảo, tụi con ở lại nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông này nói tiếng Việt rất giỏi. Ông còn rành lịch sử Việt Nam nữa. Ông còn mời tụi con qua Oregon chơi khi có dịp. Mẹ cũng nên đi xa một chuyến với tụi con.

– Ðể qua mùa tuyết rồi tính. Hôm nay mẹ cho tụi con xem một bài viết của ba cách đây hơn hai chục năm.

Tôi đứng dậy định lấy cuốn đặc san trên bàn thờ thì Quý đưa tay bảo tôi ngồi xuống.

– Con biết mẹ muốn nói bài viết của ba trong tờ báo Cảm Thông phải không? Tụi con đã đọc mấy lần rồi.

Thật ngạc nhiên vì tôi để cuốn báo trên bàn thờ chỉ mấy tuần nay, sau bao nhiêu năm cất kỹ trong tủ.

– Hai đứa đọc hồi nào?

– Tụi con đánh được hơi của ba mà.

– Hay lắm. Tụi con nghĩ gì sau khi đọc bài của ba?

Vân nghiêm mặt lại, cặp mắt hơi buồn:

– Con đọc xong là khóc quá chừng. Không ngờ mẹ giữ được bài viết của ba. Anh Quý rất xúc động cho rằng không có bài viết nào hay hơn được. Con nghĩ đó là di sản ba để lại. Tụi con hiểu được tình yêu của mẹ dành cho ba và sự hy sinh của ba cho đất nước.

Quý tiếp lời:

– Vân và con đã nói chuyện với nhau rất nhiều về bài viết của ba. Con nhận ra ba đã gián tiếp để lại bài học cho tụi con về xây dựng gia đình và có trách nhiệm với đất nước mình.

– Con nói rõ hơn.

– Con đã nghĩ nhiều đến tựa đề “Chiến trường Ðức Lập, ai sẽ sống sót”. Con không hiểu được ý ba khi đặt tựa đề. Có thể hiểu rằng sau khi chiến trường chấm dứt, bên nào sống sót sẽ làm chủ chiến trường. Riêng con thì rất thích bốn chữ “ai sẽ sống sót”. Con nghĩ điều gì sống sót sau trận địa, đó là sự hy sinh chứ không phải thân xác của người lính. Con đã hiểu được điều đó. Bạn bè của con trong nước vẫn tìm đọc tài liệu của những tác giả hải ngoại, không những về chính trị mà còn về hệ thống giáo dục và văn hoá của miền Nam trước năm 1975. Con muốn nói là chúng con phải tìm về nguồn.

– Những gì con nói là do ba mẹ con dạy dỗ hay do nhận thức của con?

– Con nói một cách thành thật, có lẽ do kết quả của những lần trao đổi với Vân, những kiến thức từ môn học, và một phần từ gia đình con. Tuy nhiên một điều gì đó tiềm tàng khó hiểu từ sự hy sinh của ba, từ cuộc sống yên lặng của mẹ đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của con. Chính Vân cũng thừa nhận, mẹ ít nói khi dạy dỗ, nhưng Vân học được nhiều điều từ mẹ. Con biết mình may mắn khi có Vân trong đời con, và may mắn được làm con trong gia đình này.

Ðến đây tôi thực sự xúc động, nhưng lại muốn che giấu niềm hạnh phúc của mình.

– Mẹ đói lắm rồi. Mình ăn cơm đi.

Vân chần chừ như muốn nói điều gì.

– Mẹ. Con muốn cả nhà mình thắp nhang cho ba thêm một lần nữa.

– Ðể làm gì?

– Ðể cám ơn ba lúc nào cũng ở bên hai mẹ con mình.

Quý nhìn tôi rồi nhìn Vân.

– Mẹ. Vân quên một người nữa cũng phải cám ơn ba.

Vân thắp ba cây nhang mới. Hai đứa thì thầm gì đó tôi không biết. Nhưng nhìn vào đôi mắt anh Lân, tôi tin anh đang nghe rõ tụi nó nói gì. Hai mươi năm rồi, mẹ con tôi trải qua biết bao thay đổi, nhưng có một thứ không hề lay chuyển: tình yêu của tôi dành cho anh.

“Ngày ấy hai đứa bên nhau trên mọi nẻo đường cao nguyên, yêu nhau mà không lo lắng về một căn nhà. Chuyến về phép ngập tràn hạnh phúc cuối cùng của anh. Rồi những buổi chiều bên mộ anh bên cạnh mấy cây bông sứ anh thích. Những ngày mò mẫm từng bước trong cánh rừng Miên tối om, để vượt qua biên giới Thái Lan. Và bây giờ mỗi năm trong ngày giỗ của anh, em luôn tin anh vẫn sống với mẹ con em.

Anh có nhớ ngày em đến hậu cứ Trung đoàn nói chuyện với anh qua máy vô tuyến? Anh nhớ không? Nếu không nhớ, em nhắc lại câu nói trong nước mắt của cô nữ sinh lãng mạn với người lính chiến: “Anh Lân, em yêu anh”.

CL