Lời Giới Thiệu: Truyện ngắn Bóng Ma Hà Tây của Uyển Nicole Dương (Tác giả giữ bản quyền, 1999.)  viết bằng tiếng anh do Linh-Chân Brown dịch sang Việt ngữ. Truyện đã được Ban tổ chức Đại hội Kịch Ảnh Moondance Festival chọn vào chung kết giải thưởng Columbine về truyện ngắn (loại bi kịch siêu thực). Uyển Nicole Dương là một bút hiệu khác của Dương Như Nguyện.

Bảo Huân

(Kính dâng hương hồn cô)

Ông hãy cho tôi biết về cô ta,”  một giọng nói lơ lớ tiêu biểu cho người Âu châu, vang lên lạc lõng trong căn phòng làm việc tồi tàn sặc mùi hương khói của tôi tại khu downtown thành phố Houston. Tôi đang chống khuỷu tay lên chiếc bàn gỗ cũ rích, thân hình thước sáu không có gì đặc biệt gò lên mặt bàn, thì người đàn ông da trắng cao lênh khênh đưa cho tôi một tấm danh thiếp mang dấu vết của những cuộc hành trình khó nhọc, khác xa với những chuyến du lịch bằng các chuyến bay quốc tế hạng nhất. Tấm thiếp làm tôi nghĩ đến những chuyến tàu ồn ào, chạy uể oải, những chuyến xe lục tỉnh bò xuyên qua các nẻo đường vùng Ðông Nam Á, với những dãy ghế gỗ chở người cùng gà vịt lúc nhúc, thỉnh thoảng chuyến xe lại dừng tại các bến xe dọc đường chen chúc những người bán hàng rong giơ những chiếc bánh đa bụi bặm lên mời chào những khuôn mặt mệt mỏi của hành khách.

Tôi liếc qua những dòng chữ in đậm tưởng sẽ đọc biết danh tính của người khách bất ngờ, nhưng trên tấm thiệp lại là tên một người đàn bà:

Jasmine Khai

Coudert Brothers

Paris. London. Milan. New York City.

Tôi nhận ra tên của một hãng luật sư quốc tế, cái tên làm cho tôi nhớ lại những ngày còn đi học ở trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn vào đầu thập niên 70, ngày mà tôi được chính phủ chú ý nhiều và ghi vào sổ đen, coi như một sinh viên phản chiến, trốn động viên, và viết báo chống chính phủ. Hồi đó, tôi có nghe tới một hãng luật sư lâu đời nhất tại Hoa Kỳ, nhưng được thành lập tại Pháp, hãng này chuyên phái luật sư tới Sài Gòn để cung cấp các dịch vụ cần thiết cho những việc có liên quan tới người Mỹ —  từ việc nhận nuôi các trẻ mồ côi vì chiến tranh đến việc mua bán vật liệu và thuê mướn nhân công cho các hãng thầu làm việc với bộ quốc phòng.

Tôi nhìn sâu vào cặp mắt xanh ẩn dưới hàng mi dài, và nghĩ tới biển Ðịa Trung Hải nơi mà ngày còn nhỏ ở Việt Nam tôi đã có lần mơ thấy. Người đàn ông chỉ độ 35 tuổi là cùng, quai hàm vuông vắn, đẹp mạnh dạn, vẻ đẹp của hắn làm tôi liên tưởng tới những minh tinh màn bạc Pháp sống trong những lâu đài vùng Loire, biểu hiện cho những cuộc viễn du qua miền Âu châu cổ kính trong những giấc mộng trẻ thơ của tôi. Những ngày đó tôi cũng đã mơ tới dòng sông Seine loáng nắng vào một buổi sáng mùa Thu, khi những chiếc lá vàng và đỏ lơ lửng nhảy múa trên không trung theo điệu nhạc rộn ràng của Berlioz.

“Anh chắc phải thuộc về típ người của St. Exupery và Hoàng Tử Nhỏ,” tôi nói. Hắn khựng lại một phút, nhăn mặt, có lẽ ngạc nhiên thực sự, trước khi gật gù mái tóc vàng dợn sóng. Trước mắt tôi là cặp mắt ướt át, đầy nhiệt huyết, ngây thơ, cặp mắt của Hoàng Tử Nhỏ nay đã thành người lớn, dong dỏng cao, già dặn hơn mớ tuổi 35, mà vẫn còn đi tìm một bông hồng quý. Bông hồng có tên là Jasmine Khai.

Hắn tự giới thiệu là Jean Paul Lambert, trước làm cho cơ quan truyền thông Pháp Agence France Presse. Tôi hãnh diện tự coi mình cũng là đồng loại với đám người này –  giới báo chí.

“Chắc ông  phải biết cô ta chứ,” hắn nói giọng như van lơn. “Cô ta có nói là ngày trước cô ta sống ở đây, và sẽ chắc chắn trở lại.”

Hắn không quên mục đích chính về chuyến đi của hắn. Ðây là một người đàn ông đi tìm người đàn bà của hắn trong tuyệt vọng. Trong khoảnh khắc, tất cả những ranh giới chia cách hai nền văn hóa đều bị sụp đổ, và tôi nhìn thấy trên khuôn mặt hắn tất cả những khuôn mặt của những người đàn ông Việt Nam đã đến với tôi mong tìm lại được bạn gái hoặc người yêu của họ. Họ đều có nét giống nhau, sự tuyệt vọng mang nặng trên khuôn mặt, và trong tâm hồn của những người đang yêu.

Tôi chộp tấm danh thiếp bằng những gì còn lại của bàn tay phải, đúng ba ngón chuối ngự. Hai ngón đã mất vì đem cúng cho giấc mộng Hoa Kỳ: tôi vẫn hay tự khoe về những kỷ niệm của những ngày đầu tiên trở thành di dân của tôi. Từ trại tỵ nạn, tôi tới thẳng Houston, làm đồ tể cho một lò sát sinh. Sự hiểm nguy của nghề nghiệp đưa đẩy tôi tới một kỷ niệm thích thú về một người luật sư chuyên đuổi theo xe cứu thương – người da trắng đầu tiên tôi quen biết từ khi sang Mỹ, người đã khuyên tôi nên bỏ việc nhận bồi hoàn lao động để đổi lấy một vụ kiện đem lại cho tôi một số tiền đủ để mở văn phòng làm việc. Phòng làm việc của tôi là giá cả của hai ngón tay bị cắt cụt.

Xem thêm:   Tự thú

Tôi chờ người khách trẻ hỏi chuyện về hai ngón tay cụt, nhưng không thấy hắn đả động gì tới chuyện đó. Hắn cựa quậy, bồn chồn trên ghế, hoàn toàn không để ý tới câu khơi chuyện đã thành nhãn hiệu của tôi – câu chuyện về những ngón tay chuối ngự mất tích của Cậu Mười. Thật đúng là một con người đang ngụp lặn trong biển yêu, không để ý tới sự việc chung quanh mình.

“Một luật sư à?” Tôi chất vấn. «Avocat à la  cours?» Tôi hỏi thêm bằng tiếng Pháp bồi. “Coudert chưa bao giờ mở văn phòng ở Houston.” Tôi chờ phản ứng của hắn. Nhưng không một phản ứng. Tôi tiếp thêm, «Có lẽ chỉ là một người đàn bà nào đó…»

“Cô ta không phải chỉ là một người đàn bà nào đó,” hắn vội vàng ngắt lời tôi, giọng nói thanh nhã có pha chút vội vã, nôn nóng. Tôi ngước nhìn khuôn mặt trẻ trung của hắn một lần nữa. Có lẽ hắn không phải chỉ là một người đàn ông nào đó.

Tôi làm việc trong văn phòng này đã hai chục năm tròn mà chưa hề có một người đàn ông da trắng nào bén mảng tới, huống chi đây lại là một người đàn ông đã làm cho tôi nhớ lại  những giấc mơ thời niên thiếu, những giấc mơ điển hình của những người đàn ông Việt ở tuổi trung niên, những người đã vừa yêu thích vừa không chịu nổi nền văn hóa phục hưng của bọn thực dân Ðông Dương, cũng như họ đã vừa chấp nhận mà vừa chối bỏ tinh thần kinh doanh của người Mỹ. Vào năm 1999, khi mà những con buôn lớn của Texas không còn chỉ làm ăn ở những khu sang trọng đầu tỉnh, dưới phố nữa mà cũng bắt đầu xâm nhập vào những khu nhiều người Việt ở giữa phố. Họ phá tan những mặt phố cũ và trát vữa stucco thành những mặt nhà mới để làm những dãy condo và văn phòng đắt giá.  Bằng cách này, họ đã giúp thay đổi tiền diện của Houston. Tuy nhiên tôi vẫn khăng khăng giữ lại nơi làm việc bé nhỏ của tôi, không chịu để cho họ mua lại trụ sở đã thành một nơi trú ẩn thân thuộc, đã thành một dấu tích của khu buôn bán cư ngụ Việt Nam. Ngoài cổng sắt, tôi khắc vòng âm dương, biểu hiện cho triết lý Ðạo giáo của tôi. Trên tấm cửa gỗ kín đáo, tôi không để tên hay bảng hiệu gì cả, chỉ có hàng rào sắt dày chắc nịch và một hệ thống báo hiệu bắt buộc khách vãng lai phải xưng tên mới được vào căn phòng vuông vức nhỏ nhắn dùng làm nơi hành nghề của tôi. Và cũng là nơi tôi làm văn nghệ.

Tôi muốn nghĩ là bản tin cây nhà lá vườn tôi đơn thương độc mã in ra và tất cả những việc linh tinh gắn liền với nó, là một nghệ thuật chính cống. Nghệ thuật bói người và sáng tạo sợi dây huyền thoại gắn bó với quê hương cũ. Bản tin của tôi là một tờ báo bằng tiếng Việt duy nhất kể lại những mẩu chuyện kỳ lạ của một nền văn hóa tha hương, gồm những truyền kỳ không ai minh chứng hay bác bỏ được. Ðã có hồi tôi đánh máy các mẩu chuyện và sửa lỗi chính tả bằng bút mực đen, sao chép lại bằng máy in Xeroc cà-tịch cà tàng, và đem phân phát tại các chợ Á châu khắp nơi trong thành phố. Hình dạng, dung nhan của tờ báo đã có khá hơn với ngày tháng qua, tôi đã thay thế chiếc máy chữ IBM cũ rích tự xóa, mua từ thập niên 70, bằng một máy điện toán để bàn, gắn liền với một máy in laser, điển hình cho kỹ thuật của thập niên 90. Và mua một máy in Xeroc mới. Nhưng nội dung tờ báo vẫn giữ nguyên đặc tính của nó. Một số người Việt cho rằng việc tôi làm chỉ là một sự ngồi lê đôi mách bẩn thỉu. Có những người khác thì lại thán phục hết cỡ, coi tờ báo là một chiếc cầu nối khoa học với tâm linh. Những người hâm mộ đều biết tên tuổi của tôi – danh tiếng tôi nổi như sóng cồn, tôi là Cậu Mười, ông đồng nổi danh, nguyên phóng viên nơi quê hương cũ, nhà kinh doanh tự lập, nhà xuất-bản độc cô, tiên tri người Việt độc nhất của Houston, kiêm thám tử tư, và kiêm bách nghệ. Tất cả những doanh nghiệp lớn nhỏ của người Việt tại Houston đều đã từng là nguồn quảng cáo cho tôi, phụng sự cuộc sống thanh nhàn của tôi và làm cho tờ báo đơn phương độc mã của tôi tăng trưởng – người Việt vốn khoái những chuyện dị kỳ, tréo cẳng ngỗng. Bản tin cũng gần như là cùng tuổi đời với lịch sử định cư của người Việt tại Houston, tiểu bang Texas, từ khi cộng sản chiếm đoạt Sàigòn năm 1975.

Xem thêm:   Vượt biên đường bộ

Ðối với người Việt thì Văn phòng Cậu Mười mang những ý nghĩa khác nhau, tùy từng người. Nhưng chưa một người da trắng nào đặt chân vào ngưỡng cửa này. Cho đến hôm nay.

“Ðốt cho một nén hương đi chứ,” cậu Hoàng Tử Nhỏ đã thành niên thúc giục. Cậu ta hẳn là đã từng nghe đến thông lệ của tôi. Hắn đã soạn bài thật kỹ.

Thế rồi tôi đốt một nén hương, và sửa soạn ngồi thiền.

o O o

– “Nước, nhiều nước lắm, nước thật trong, nhìn thấy đáy nước, sỏi nhẵn và đá trắng nằm im lặng, đang chứng kiến,” tôi nói, mắt lim dim. Tất cả các màn cửa đã được khép lại. Trong những giờ thiền của tôi, ánh nắng không được soi tới. Trong hương khói mờ mờ, nét trẻ trung của người đàn ông da trắng đã biến mất. Khuôn mặt đăm chiêu nghiêm trọng của hắn xác nhận là tôi đã đi đúng hướng.

Tôi tiếp tục miêu tả đặc tính toát yếu của một người đàn bà Á châu toàn mỹ. Eo nhỏ, vừa tầm tay ôm của một người đàn ông da trắng. Cặp mắt hạnh nhân long lanh ngấn lệ hy sinh, như những con thuyền đưa mộng trong đêm dài. Miệng nhỏ xinh, không đủ cỡ để trách móc hay than phiền. Thân người như lá liễu lả lướt trong gió, nhưng đủ dẻo dang để chịu đựng sự phũ phàng của đàn ông và của số mệnh. Tôi đã tả Madame Buttterfly theo dáng dấp người trong mộng của tôi.

– “Lan rừng. Màu môi và màu da là màu hoa cà,” Tôi bật nói, và da mặt người khách trẻ bỗng thành trắng bệch, trắng hơn cả màu khăn trải giường.

– “Cánh đồng soan,” tôi nói tiếp, và thấy hắn nhắm mắt lại. Tôi bảo hắn khi màu hoa cà thành màu xanh, môi hồng và da thịt thành tím sẫm. Tất cả hoà lẫn vào vườn soan. Hình như tôi nhìn thấy một giọt nước mắt rơi từ hàng mi dài che giấu màu mắt xanh của người đàn ông đa cảm.

– “Vậy là ông có biết nàng,” hắn nói. Tôi cố tình ngồi im, không phủ nhận mà cũng không xác nhận. Tôi là Cậu Mười, người của vũ trụ. Tôi phải biết tất cả mọi sự. Ai cũng hiểu điều đó.

Khi hàng mi dài mở lên và đôi mắt xanh chiếu vào mắt tôi một lần nữa, tôi nhìn thấy những cảm giác xao động của một kỷ niệm đang được sống lại, và biết là tới lượt hắn lên tiếng.

– “Nàng có chìa khoá vào phòng tôi,” hắn nói. “Và đó là nguyên do chúng tôi gặp nhau. Ở khách sạn Metropole tại Hà Nội. Một nghìn chín trăm chín mươi tư, năm Mỹ hủy bỏ cấm vận tại Việt Nam.”

o O o

“Ðó là lần đầu tiên tôi tới Ðông Dương và nhận thấy mảnh đất này kỳ lạ. Ý nghĩ và hình ảnh mỗi ngày in vào trí óc tôi như chuyến tàu suốt trong một đêm giông bão, xuyên qua sấm sét và mưa gió. Ngay cả những đồ đạc sang trọng nhưng buồn tẻ của khách sạn Metropole tân trang cũng gợi cảm giác hồi tưởng trong tâm trí tôi – tối đến tôi hay cảm thấy như mình đang mơ ngủ, nhất là vào khoảng 10 giờ đêm, khi tôi lướt qua hành lang của khách sạn về phía quầy nhạc. Ðó là nơi tôi nhâm nhi ly rượu mạnh sau bữa ăn và duyệt lại những ghi chép trong ngày, tỉnh táo như một quan sát viên, mà cũng mơ mơ màng màng như một người dự cuộc.

“Tôi chưa bao giờ phân tách, mổ xẻ được tình trạng nửa tỉnh nửa mơ đó.

“Tình trạng này hiện hữu ngay cả giữa ban ngày khi tôi bước vội qua những ngõ hẻm của một Hà Nội yên tĩnh, khi ra vào những ngôi nhà và biệt thự cũ của chính phủ, nơi ảnh Hồ Chí Minh với nụ cười cha chú nhìn xuống đám con cháu quan lại của  xã hội chủ nghĩa. Nụ cười đặc thù của bác Hồ, không thay đổi, trong thời chiến cũng như thời bình.

Xem thêm:   Thư cho Thao

“Tình trạng nửa tỉnh nửa mơ này cứ dai dẳng mãi trong cả những buổi hoàng hôn, khi tôi chạy vòng quanh bờ hồ mờ sương khói của Hà Nội, và qua ngôi đền quê mùa, thu nhận vào cặp mắt dấu vết nước Pháp còn sót lại ở đất Ðông Dương cổ xưa này. Ông biết không, tôi sinh ra ở Paris, vào năm 1965, con trai của một người đàn ông đã có tuổi, lấy vợ muộn và đã sống một thời gian ở Ðông Dương. Thuộc địa đối với tôi hồi đó chỉ là những tấm ảnh đen trắng, những hình ảnh chỉ thành sinh động khi tôi bắt đầu nhận làm việc với hãng Agence France Presse. Tất cả đều khởi sự khi nước Pháp vừa trở lại với thuộc địa sở thích của nó bằng cách mua và tân trang khu vực mà nó suýt trở lại làm sở hữu chủ sau gần một thế kỷ qua: khách sạn Metropole, một mốc lịch sử tại trung tâm Hà Nội.

“Tôi lấy Metropole làm nơi tạm cư, và rồi cũng phải tập quen với những thông lệ hàng ngày, chấp nhận trạng thái nửa tỉnh nửa mơ của mình, thỉnh thoảng đến với tôi một cách bất chợt. Tôi coi đó như là một tình trạng không tránh khỏi mà vùng đất Ðông Dương đã xâm nhập vào người tôi.

“Cứ mỗi đêm Thứ Tư, lại có một ban nhạc bốn người chơi đàn tại quầy nhạc của Metropole; ban nhạc gồm có dương cầm, sáo, vỹ cầm, và hồ cầm. Họ chơi cả nhạc cổ điển cũng như nhạc mới. Ban nhạc bốn người này chơi từ bản Pachebell’s Cannon in D cho đến nhạc khúc Le Docteur Zivago. Các nhạc sĩ người Việt mảnh khảnh này đã làm cho tôi thán phục, với cung cách họ điều khiển nhạc cụ nhiều hơn là với tiếng nhạc do nhạc cụ gây ra. Họ điều khiển nhạc cụ của họ với một sự chịu đựng não nuột chỉ so sánh được với linh hồn sầu mộng của mảnh đất Ðông Dương  mà thôi.

“Rồi một đêm Thứ Tư, một đêm đã trở thành bất diệt, khi tôi ngửng lên nhìn thì thấy một   người đàn bà trẻ tuổi đang hát với ban nhạc. Trong chiếc áo đầm tây phương, trông nàng thật là lạc lõng – chiếc áo dạ hội màu đen bó sát thân hình mảnh mai, bên ngoài là áo len cùng màu. Nàng không phải là tuyệt sắc giai nhân, nhất là trong xứ sở đầy rẫy những người đàn bà đẹp dáng dấp thanh tao như những cánh bướm trong chiếc áo dài của họ.  Tôi không thấy họ quyến rũ đối với tôi. Mảnh mai và ngây thơ quá, như những cánh tay non nớt của trẻ thơ, hay như những bình hoa quý dễ vỡ. Tôi rất sợ phải nâng niu những vật dễ vỡ, nhất là trong trạng thái mơ màng của tôi.

“Chính chiếc áo dạ hội màu đen, đôi mắt sâu sắc và suối tóc bồng bềnh của người đàn bà đó đã biểu hiện cho con người của nàng. Tất cả những gì còn lại trên người chỉ là những viễn ảo qua con mắt đỏ ngầu của tôi vào lúc mười một giờ khuya đêm ấy, giữa đám khói thuốc xì-gà Cuba của những du khách tụ tập tại khách sạn mốc điểm Metropole. Tuổi nàng chừng 26, 27 gì đó, chủ nhân của cặp mắt đang nhìn thấu suốt linh hồn tôi, vậy mà tôi không có ấn tượng đầu tiên nào khác đáng ghi nhớ. Ngay cả giọng hát trong trẻo yếu ớt, không khác gì giọng của ca sĩ Hy Lạp Nana Mouskouri, tràn vào tai tôi nối tiếp nhau không rõ rệt thành chuỗi âm thanh rung động không lời. Nàng hát bằng tiếng Việt. Trong bài ca, ngôn ngữ không nghe như một độc âm nữa, không còn chát chúa sắc bén nữa, mà trở nên dịu dàng, vỗ về, du dương hơn. Người ta nói nàng là một ca sĩ địa phương, nhưng không hiểu sao trông nàng vẫn có những cử chỉ lạc lõng, xa lạ như không phải là người của nơi này.

(còn tiếp)