Hè 1973, sau khi kết thúc năm học thứ 3 ở ĐHSP Huế, tôi về Hòa Khánh (cách Đà Nẵng non 10 KM) để nghỉ hè. Gia đình tôi tản cư đến ở đấy. Nhưng chưa nghỉ được ngày nào thì có người rủ đi làm thợ nề trên đèo Hải Vân. Tôi đi làm ngay vì muốn có ít tiền để vào Sài Gòn cho biết “Hòn Ngọc Viễn Đông” nó như thế nào!
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
(“Áo lụa Hà Đông” – Nguyên Sa – Trần Bích Lan)
“Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát”
(“Trả lại em yêu” – Phạm Duy)
Và ca khúc “Ghé bến Sài Gòn” của Nhạc sĩ Văn Phụng cứ thôi thúc tôi!
Công việc thợ nề của tôi là xây các vách ở hai đầu các cống thoát nước. Vách có hình thang vuông: đáy 2 mét, đỉnh 0.2 mét. Cống có đường kính 2 mét, bằng thép. Và xây các đường dẫn nước phía vách núi để khi mưa lớn, nước chảy mạnh, không bị xói lở. Mỗi ngày được trả 250 đồng.
Tôi dự định sẽ bắt xe Phi Long hay Tiến Lực để đi Sài Gòn. Nhưng, làm được hơn một tháng, đã có hơn 10,000 đồng (1 xe máy Honda nữ còn nguyên trong thùng gỗ chỉ 29,000 đồng) thì ông anh họ nói sẽ gửi đi máy bay. Thích quá!
Đúng ngày giờ hẹn, tôi đến chỗ làm của ông anh họ (gần Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng). Chờ một lát thì có người đọc danh sách những người được bay chuyến sáng hôm ấy. Nghe tên mình, tôi lên xe.
Chiếc GMC chở gần 30 người, chạy ra phi trường Đà Nẵng. Xe đến gần một chiếc máy bay khổng lồ. Đó là chiếc máy bay Lockheed C-130 Hercules. Chúng tôi được hướng dẫn lên máy bay từ phía đuôi máy bay và được chia đều ngồi dọc hai bên. Mỗi ghế một người và phải buộc dây ngang bụng.
Tấm bục lớn ở đuôi máy bay được nâng lên, khép kín phía đuôi máy bay và chiếc Lockheed C-130 Hercules lăn bánh, cất cánh. Qua ô cửa nhỏ, tôi thấy bên dưới là núi rừng trùng điệp. Có lẽ “nó” đang bay trên Cao Nguyên.
Tôi đã bay trên một số loại máy bay trực thăng, C123 … nhưng phải công nhận anh C130 này rất êm, rất thoải mái.
Có người bảo: “Đến rồi! Sông Đồng Nai kia rồi!”. Và máy bay hạ dần độ cao rồi đáp xuống phi cảng Tân Sơn Nhứt.
Tôi lên một chiếc Lambro 550 để ra cổng phi cảng rồi đi xích lô về nhà bạn, người bạn cùng lớp thời trung học, đã vào Sài Gòn để học Đại học.
Ngày thứ nhất, bạn giao cho tôi một chiếc xe gắn máy Suzuki. Tôi đi đổ xăng và mua một cái bản đồ Thủ đô Sài Gòn và bắt đầu khám phá “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Tôi đến đường Trương Minh Giảng, ngắm Đại học Vạn Hạnh. Đi hết đường Trương Minh Ký, rẽ trái, đến Ngã tư Bảy Hiền, ngắm Bệnh viện Vì Dân đồ sộ, vào Hương lộ 14 để thăm ông anh cô cậu. Khu Bảy Hiền có rất đông người Quảng Nam vào làm ăn sinh sống.
Ở chơi nhà ông anh cô cậu đến 14 giờ, tôi đến đường Trần Quốc Toản để thăm bà chị kết nghĩa. Năm 1964, Quảng Nam bị lụt lớn, thiệt hại khủng khiếp về người và tài sản. Trường Trung học Trưng Vương (Sài Gòn) của chị Nga quyên tiền giúp học sinh miền Trung. Lớp 11A2 của chị Nga đã gửi tiền giúp lớp tôi. Tôi và bạn tôi, mỗi người nhận được 200 đồng. Tôi viết thư cảm ơn lớp 11A2 của chị Nga. Từ đó, chị Nga và tôi thường viết thư cho nhau.
Chị Nga học trên tôi 2 lớp. Tôi cũng nhận được nhiều thư của các chị cùng lớp với chị Nga nữa. Ba chị Nga là Bác sĩ và sau này chị Nga cũng theo nghề cha. 21 năm sau (1973-1994), trong dịp đi tăng cường cho Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, chị Nga có đến Khu tập thể trường THPT. DTNT. Ninh Thuận để thăm gia đình tôi.
Từ giã chị Nga và gia đình, tôi đến chợ Bến Thành, đi qua nhà sách Khai Trí, vòng ra đường Bạch Đằng chiêm ngưỡng tượng đài Đại Vương Hưng Đạo – Trần Quốc Tuấn.
Sau đó, tôi đến Dinh Độc Lập, ngắm công trình của Kiến trúc sư lừng danh Ngô Viết Thụ, đến chiêm ngưỡng Nhà thờ Đức Bà rồi đến Viện Bảo Tàng.
Tại Viện Bảo Tàng, nhìn những cây cọc Bạch Đằng, hình ảnh Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung … lòng tôi dào dạt cảm xúc tự hào, cảm phục cha ông mưu trí, anh hùng, kiên cường, bất khuất!
Ngắm những phiên bản trống đồng Đông Sơn, thạp đồng Đào Thịnh, những mũi tên đồng … tôi như thấy lại cả một quá khứ gian khổ, hào hùng và tài hoa của dân tộc!
Rời Viện Bảo Tàng, tôi vào Thảo Cầm Viên để xem voi, gấu, sư tử … Con hổ trong Thảo Cầm Viên, lúc này, trông rất giống con hổ của Thế Lữ trong bài thơ nức tiếng “Nhớ rừng”. Nó khinh khỉnh, nghênh ngang, dữ dằn, hung tợn lắm! Chắc là được ăn uống đầy đủ nên rất sung sức, mạnh mẽ.
Gần 17 giờ, khát nước và mệt, tôi quay về nhà bạn. Gặp một chị bán trái cây, đang đẩy xe đi bên đường, tôi dừng lại, hỏi: “Bao nhiêu một chục cam vậy chị?”. Chị trả lời ngay: “4 đồng chú à!”. Tôi nói: “Chị bán cho em một chục!”. Chị nhặt cam, bỏ vào một bao giấy đã được dán sẵn. Tôi trả tiền cho chị.
Cầm bị cam, nghe nằng nặng, tôi mở xem. Thấy 13 trái cam, tôi nói với chị: “Dư 3 trái chị ơi!”. Chị bảo: “Không dư đâu! Một chục là 12 trái, tôi biếu chú 1 trái nữa là 13. Nghe tiếng chú, tôi biết chú ở ngoài Trung mới vào. Quảng Nam phải không? Ở đây, tôi tính chục 12, chứ chú xuống miền Tây, người ta tính cho chú chục 14, chục 16 nữa kìa.”.
Tôi vô cùng ngạc nhiên: chục 12, chục 14, chục 16 và còn biếu 1 trái vì “tôi biết chú ở ngoài Trung mới vào”! Người Sài Gòn sống nghĩa tình quá! Tôi vô cùng cảm động trước tình cảm của chị bán trái cây, tôi nói: “Vậy, em cảm ơn chị! Chào chị nhé!”.
Ngày thứ hai, tôi đi lung tung: đến cầu Chữ Y, qua Khánh Hội, đến Đa Kao, Chợ Lớn … Đi trên các con đường Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, … rợp bóng me, hoa và lá me rắc vàng trên đường. Đúng là những con đường dành cho các nhà thơ!
Đến chiều, tôi đến nhà sách Khai Trí, mua gần 20 quyển sách các loại: từ điển, thơ, tiểu thuyết, sách dịch, sau khi tính toán số tiền cần để ăn uống và đi xe.
Sáng hôm sau, tôi chia tay bạn và lên xe Phi Long để về lại Đà Nẵng.
Xe chạy tới Sa Huỳnh thì trời tối, những người anh em con Lạc cháu Hồng đang bắn giết nhau, xe không thể đi tiếp. Xe phải đưa hành khách xuống bờ biển để lên 2 chiếc thuyền. Thuyền chạy cách bờ vài cây số. Nhìn vào trong đất liền, thấy đạn bay đỏ trời, hỏa châu chiếu sáng, tiếng súng lớn nhỏ, lúc nhặt lúc thưa.
Ra tới thị xã Quảng Ngãi, thuyền mới cập bến, chúng tôi lên bờ và lên xe – một xe Phi Long khác – để đi tiếp ra Đà Nẵng.
Đấy, lần đầu đến Sài Gòn của tôi là như thế. Còn rất nhiều tình tiết nhưng tôi xin thuật vắn tắt như thế vì sợ làm mất thì giờ của người đọc!
Sài Gòn thật tuyệt vời! Đúng là một Hòn Ngọc! Hòn Ngọc không chỉ là nhà cửa, lâu đài, cao ốc, đường sá … mà quan trọng hơn, đó là Hòn Ngọc của Tình Người, của Nhân Cách, của Tâm Hồn người Sài Gòn!
PTK
Ninh Thuận, 24-5-2016