“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Khó lắm, tui nghĩ nó khó lắm!!! Giữa một thế giới người ta hơn thua nhau từng li từng tí, mà có những con người trên thế gian này khi chết đi mà người ta ai ai cũng tiếc thương như vậy, không phải dễ dầu gì nghe chú Tám à!

Rồi tôi nhớ lại hồi nhỏ đọc Quốc Văn Giáo Khoa Thư có nói trong sách sử của mình cũng có “Ông Vua có lòng thương dân” như vậy. Chú Tám còn nhớ không? Để tui nhắc sơ sơ cho chú nghe nhe. Đại ý là: “Vua Thánh Tôn nhà Lý là ông vua nhân từ, có lòng thương dân. Một năm, trời làm rét lắm, vua nghĩ đến những người tù phạm phải giam ở trong ngục, bèn bảo các quan rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc như thế này mà còn rét. Những kẻ nghèo khó, những tù phạm phải trói buộc, cơm không có mà  ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu?”. Nói rồi, vua truyền lấy chăn, chiếu phát cho tù. Lại có hôm, đang buổi chầu, có công chúa đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy. Vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm bớt đi.”

Một câu nói của một bậc minh vương nhân từ, đã qua đi hằng bao thế kỷ, mà rồi để lại đời đời trong lòng con dân hậu thế Việt tộc mình đó chú Tám! Có mấy ai được như vua Lý Thánh Tôn!?!

Hôm qua, tui có ghé lên cô Tư, có gặp thằng Thứ bị cụt chưn. Hồi nhỏ nó ở kinh xáng Bốn Tổng với tui. Nguyên cớ là hồi đó nó đi lính ở đồn Gia Vàm, bị thương trong trận giữ đồn, rồi bị cưa chân. Vậy mà rồi, nó nhận được món tiền bảy trăm năm chục ngàn nghe chú. Nghe đâu cũng bằng năm chục đô la gì đó. Thiệt tình tui không rành ba cái vụ đổi tiền này ra tiền kia. Thằng Thứ nó đem khoe với tui là tiền do chú nhờ người bà con đem về nói là tiền anh em bà con bên đó gom góp lại gửi tặng thương binh cũ bên nhà ăn Tết. Nó mừng húm.

Tui ngồi nghe nó vừa mừng, vừa nói mà vui lây với nó. Nó nói với tui là nó không ngờ anh em còn nhớ nhau như vậy. Cuộc đời lính tráng của nó sau mấy năm giặc giã rồi thành tàn phế như vậy mà nó vẫn sống lương thiện nghe chú. Tháng nước nó cắc ca cắc củm bắt nhái, đào trùn giăng câu. Có ai mướn lặn đất ruộng đắp bờ, đắp vườn nó cũng lãnh tuốt luốt. Cái chưn cà thọt đi không vững, nó kêu con nó phụ giúp. Mỗi xuồng bề hoành cỡ một thước hai với đất ruộng  khẳm đừ, nó kiếm cũng được ít ngàn. Vậy mà nó lặn hết mùa chở đất như chim cồng cộc mò cá dưới sông chú Tám à! Mùa lúa chín, nó cũng đứng công cắt như ai. Hai vợ chồng với đứa con trai lớn lãnh một công tầm cắt. Mỗi công đất vừa cắt vừa gom cũng kiếm được một giạ rưỡi lúa hột. Mỗi lần gặp tui nó than: “Anh Hai ơi, em cũng ráng sức làm lụng kiếm cơm nuôi sắp nhỏ! Khi đói, cái giò què cũng phải bò nữa nghe anh Hai!” Thấy nó cực mình cầm lòng không đậu chú Tám à.

Xem thêm:   Máy giặt... người

Bữa nay, gặp nó tui thấy gia đình thằng Thứ đang vui như Tết vậy đó chú. Nó cứ mở gói tiền ra khoe rồi gói lại ngồi nhìn. Nó tâm sự với tui như vầy nghe chú Tám: “Em sẽ để dành số tiền này hoài anh Hai à!” Rồi nó nói tiếp:” Để qua Tết, cắt gặt xong, tụi em gom ba hột lúa cắt bán thêm năm ba giạ, nhập vô với số tiền anh em gửi cho mà che lại cái nhà nó xiêu vẹo gần sập rồi anh Hai.” Thằng Thứ vui lắm. Nó nhờ tui gửi lời cảm ơn chú Tám và bà con giúp đỡ nó lúc thắt ngặt. Nghe đâu, cùng trương bạn với nó cũng có nhiều người nhận được quà từ tấm lòng đùm bọc của anh em ngoài đó. Dường như có đến hằng mấy trăm gia đình thương binh như vậy được giúp đỡ đợt này. Phải vậy hông chú? Có tin tức gì chính xác chú biên thư cho tui hay nghe để mà mừng cho anh em tàn phế bên này.

Khi tui xuống xuồng để mấy đứa nhỏ bơi dìa, nó còn nói vói theo: “Em mừng quá anh Hai ơi!” Tui nói với nó: “Tao cũng mừng cho mầy”. Thật tình là trong lòng tui cũng vui thiệt là vui đó chú Tám. Lòng nhân ái ở đâu mà còn, ở đó nó còn có an vui và hạnh phúc. An vui, hạnh phúc đến với người nhận mà nó còn đến cả với người cho nữa nghe chú. Phải vậy hông chú Tám?

Thôi nghe chú, cái thơ bữa nay lan man mà dài quá. Tui vui nên viết hoài mà quên ngừng. Thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi.

Cuối thơ,

Vua Thánh Tôn

 

Căn cội

Hai Trầu

Kinh xáng Bốn Tổng ngày 27 tháng 3 năm 1999.

 

Chú Hai gởi cho cháu Thu,

Trời thần ơi, chú Hai bắt được cái thơ của cháu gởi hỏi thăm sức khỏe của chú mà cũng có ý trách bây giờ em cháu đông quá nên chú Hai quên cái tên Thu rồi, làm chú lo âu quá mạng!

Chuyện đời đâu phải nhớ nhớ, quên quên một cách dễ ợt vậy cháu. Chú Hai là dân ruộng lâu đời mà! Bàn chân của chú lúc nào cũng bước xuống ruộng, xuống bùn gần hơn là mang đôi guốc vông, đôi dép Lào, đôi dép Nhật cháu à! Nên chừng nào chú còn ở kinh xáng Bốn Tổng này, còn uống nước đục, nước phèn là chú Hai còn cái bụng nhớ người quen nghe cháu Thu! Da chú Hai còn mốc cời, nổi vẩy như vẩy rồng vì phơi nắng, phơi mưa; tóc chú còn khét mùi nắng gắt mùa hè nóng đổ hào quang như lửa đốt; áo chú còn lấm lem mồ hôi muối màu trắng lăng quăng như cái bản đồ thế giới có nghĩa là chú chưa ra khỏi cái kinh xáng của mình, nên đời thuở nào chú Hai vô tình như vậy.

Xem thêm:   Con dế ở quảng trường Times Square

Chú ngẫm nghĩ, người ta ít khổ sở là nhờ người ta biết cái gốc gác của mình. Cái gốc nó vững thì cành nhánh mới vững phải hông cháu? Chú thì trước sau vẫn vậy. Làm mướn làm thuê thì nói mình làm mướn làm thuê; làm ruộng làm rẫy thì nói mình làm ruộng làm rẫy; giăng lưới giăng câu thì nói mình giăng lưới giăng câu, đâu có ai nỡ lòng cười mình phải hông cháu?

Một người biết thân phận hẩm hiu của mình, người ấy ít khổ hơn người không biết mình đang hẩm hiu mà rồi cứ chạy đuổi theo hư danh, ảo tưởng trên đời!

Cháu Thu à,

Ở dưới kinh xáng Bốn Tổng này, ra Giêng lúa mới đỏ đuôi bông cái, chắc cũng phải bước qua tháng Hai mới cắt gặt được, nên mấy đứa cháu nội của chú, tụi nhỏ nó chở chú xuống Cần Thơ thăm mấy người bà con vài bữa. Trời thần ơi, lâu quá rồi chú mới đi Cần Thơ như người lạ lạc loài giữa chợ búa này. Không phải vì chợ búa sung túc nghe cháu mà vì cái lạ đó mà!

Những con đường phố vẫn còn đó, vẫn xe cộ dập dìu, vẫn hàng quán nhộn nhịp, vẫn cảnh cũ mà người cũ thì không gặp lại ai cháu Thu à! Chú nói lạ là lạ vậy. Bến xe mới như cái chợ trời. Kẻ đi người đến, xe cộ tranh giành khách như tranh giành một món hàng không bằng! Xe đạp ôm cứ rà rà theo mấy người nhà quê như chim rình mồi, như cá linh rỉa chưn rỉa cẳng, thấy mà phát mệt. Âu đó cũng tại cái nghèo, vì miếng cơm nên mới làm cái nghề ít vốn, lấy sức lực ra mà gồng lưng đạp xe như thục mạng mới sống nổi cháu à!

Chú kể ra vậy để cháu thấy thêm một góc nhỏ cuộc đời, chứ không dám chê cười nhe cháu. Mình khổ cực nhưng nhìn chung quanh còn có nhiều người khổ cực hơn mình nữa mà! Vì không có nghề nào xấu dầu cái nghề đạp xe ôm hay xích lô, xích liếc, xe lôi…

Từ bến xe mới, chú kêu thằng cháu chở chú đi lòng vòng hết bến bắc Cần Thơ, qua cầu Cái Khế. Cái cầu đúc vẫn vậy, không thay đổi gì. Đá, cát, xi măng, cốt sắt vô tri mà lòng người cũ qua đây, sao chú nghe nhớ lại mấy mươi năm qua như mảnh hồn quặn thắt. Dinh ông tướng Tư Lệnh quân đoàn IV vẫn nằm sờ sờ bên kia dốc cầu trên con đường Nguyễn Trãi im lìm ủ rũ dưới những tàn sao cổ thụ phía trước dinh.

Xem thêm:   Món chay ở Sài Gòn

Chú ghé lại thăm những căn gác trọ mà ngày xưa chú đi thi, đi học ăn nhờ những ngày cơm tháng. Nay những người chủ già nua quá rồi, người ta nghèo quá không làm gì ra tiền cháu à, nên lần lữa, có người còn, người mất vì bịnh hoạn yếu đau. Theo con hẻm chỗ lò thịt bên này cầu Cái Khế đi xuống ụ tàu, chú vào thăm người quen lúc trước nhưng người cũ chết rồi! Con hẻm nhỏ bây giờ thênh thang trước mặt vì không gặp người quen cháu à!

Chú ghé bến Ninh Kiều nhìn những con đò về khắp ngã, trong đó có chiếc đò Ánh Hồng về miệt Mái Dầm, Cái Côn, Mương Khai, chú thấy như quen quen. Những ngày xa xưa ấy hơn hai chục năm mà như mới đó, hôm qua. Chú nhớ câu thơ của “người bán cà rem dạo” bên Cái Vồn, Bình Minh về phía bên kia bến bắc: “Chuyến đò nào đưa em về trong mưa…  Tôi mang đôi mắt em theo dòng kinh xám…”(*)

Bến bắc Cần Thơ – nguồn Dantri

Bên kia sông, đối diện bến Ninh Kiều là Xóm Chài là đà như nằm trên mặt nước. Đói bụng quá, chú kêu thằng cháu nội ngồi sà xuống cái ghế chỗ quầy bán hủ tiếu nơi bến Ninh Kiều ăn một tô hủ tiếu khô. Bà chủ cũ cũng đâu mất tăm, nên đứa con dâu của bà nấu hủ tiếu khô không ngon bằng mẹ chồng mấy mươi năm về trước.

Chú thả bộ lên con đường Phan Đình Phùng, Nguyễn An Ninh, qua đại lộ Hòa Bình, đâu đâu cũng lạ. Những ngôi trường Tân Văn, Võ Văn, Bồ Đề thay đổi ráo trọi.

Quay qua con đường Ngô Quyền ngang qua trường Đoàn Thị Điểm cũ, rồi đi thẳng vô hẻm chùa Cây Bàng, nhớ Tết Mậu Thân với tên bay đạn lạc mà còn ghê hồn!

Chú bọc qua đường Phan Thanh Giản, ngang hẻm Hai Địa nhớ căn nhà xưa của ông huyện Hưng mà ngày trước mấy lần chú ở trọ đi thi. Dọc con đường này chạy thẳng ra đường Cống Quỳnh dưới mé sông, chú kêu thằng cháu chạy chầm chậm để chú tìm cái lớp dạy tư của ông thầy giáo Xuân Vũ, nhưng cũng chẳng thấy chỗ nào. Ngày trước ông thầy này dạy Toán, Lý, Hóa nổi tiếng ở Cần Thơ đó cháu Thu à!

Trước cổng trường Phan Thanh Giản chú đứng một hồi, rồi ngó ngó nhìn nhìn vô cái phòng thi năm xưa nhớ những lần “thi không ăn ớt thế mà cay”, nghĩ cũng trần ai lai khổ về mấy kỳ thi hóc búa ngày trước.

Trời ơi, hồi đó sao mà đề thi nào cũng khó hết trơn đó cháu. Chắc tại chú cũng không phải học trò khá đó mà, nên thi là té lụi đụi hết keo này qua keo khác cho tới lúc nhớ rõ số ghế, số bàn như nhớ tên, nhớ tuổi vậy đó.

Cần Thơ này vậy mà lạ cháu Thu à. Ngoài đường, phố xá, xe cộ rần rần, mà bước vào mấy con hẻm nhỏ tráng xi măng thì nhà cửa, vườn cây như ở miệt vườn vậy mà, những con hẻm nối liền nhau, ăn luồn như kinh rạch chằng chịt khắp nơi.

(còn tiếp)