“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Cái thằng số 15 tên là Li-li-a Thu-Ran, từ hồi mở màn tới giờ chưa đá vô gôn trái nào mà hồi tối nó đá vô tới hai trái thiệt là ngon lành. Cái hay là nó đâu phải hàng ăn, mà lại ăn mới đáng nói, phải không chú? Nó là hàng a-de. Điểm kế là thằng số 5 của Tây, tên gì tui quên mất, à, cái thằng Lô-Ren Bờ-Lăn, bị đuổi ra sân vì thẻ đỏ, mà Tây cầm cự giữ trái banh ăn của thằng số 15 cho đến phút cuối là hên rồi đó chú. Hay và hên, hai điều quan trọng quá hở chú Ba?

Chúa Nhật tới, lịch sử tranh cúp đá banh lặp lại lần nữa giữa hai hội Ba-Tây và Tây Gà Trống như hồi năm 1986. Kỳ đó, người ghiền banh gọi là “trận chung kết sớm” vì còn ở vòng ngoài nhưng ai ăn thì ở, ai thua thì dìa. Lần này thì “trận chung kết thiệt” và là lần đầu tiên nước Tây vào chung kết với một nước đã bốn lần ôm cúp vàng, hồi hộp quá chú Ba! Mình chờ coi nhe chú!

Nhân nói ba cái vụ đá banh, tui tò mò mở lại đống báo cũ của chú coi có khúc nào nói miền Nam mình biết đá banh từ hồi nào. Thiệt tình hồi tui còn nhỏ là tui đá banh ngoài sân lúa hoài. Hồi đời trước làm lúa mùa, nhà nào cũng giẫy một cái sân cho rộng để kéo lúa bông dìa chất thành cà lang cao như cái núi đặng từ từ kéo xuống thành từng bã, từng bã cho trâu bò nó đạp ra thành lúa hột. Rồi sau đó cũng tại cái sân này người làm ruộng mới làm cái giàn cho thiệt cao mà vê lúa cho sạch bụi. Sau đó mới kêu xe trâu kéo lúa hột về nhà mà chứa trong bồ, trong lẫm. Khi mùa màng xong xuôi, tới mùa đốt đồng, sân lúa thành sân banh. Sắp nhỏ đá banh, người lớn đá banh. Người lớn đá banh da. Con nít đá banh bằng lá chuối, hoặc rơm khô bó lại tròn tròn y như banh thiệt vậy đó. Ba trái banh bằng rơm, bằng bẹ chuối bó lại vậy mà quá trời đó mà! Sau này lớn lên mê banh gần chết. Nghe nói ở đâu có đá banh tui cũng lặn lội đi coi cho đã con mắt. Đâu có trận nào ở quận, ở tỉnh mà tui bỏ sót. Đá chân không, đá giày, tui cũng mê ráo trọi.

Xem thêm:   Hột gạo

Nhưng thiệt tình tui không biết đá banh miền Nam mình có từ hồi nào nghe chú. Vậy mà nhờ báo cũ của chú nên tui biết chút chút, ghi lại cho chú xem chơi nhe: “Vào năm 1896, hằng tuần tại Jardin de la Ville (sau này là Vườn Tao Đàn) một nhóm người gồm đủ các quốc tịch như Pháp, Hòa-Lan, Thụy-Sĩ, Anh, Bỉ… đã vui chơi với nhau bằng quả bóng bầu dục. Đến năm 1897, bóng bầu dục được thay bằng quả bóng tròn. Cũng trong năm này, xuất hiện hai đội banh Cercle Sportif Saigonnais và Infanterie mà cầu thủ bao gồm các quan chức, các chủ hãng, chủ nhà máy, giám đốc các hãng buôn…

 

Trong thời gian từ năm 1897 đến 1905, tại Sài-Gòn xuất hiện 5 đội banh mà đa số do người Pháp sáng lập và điều hành. Mỗi đội banh này chỉ có vài cầu thủ người Việt Nam mà thôi. Do đó, năm 1908, một nhóm người Việt đã thành lập một đội banh gồm toàn người Việt lấy tên là Gia-Định Sport. Đến năm 1909, đội banh này sáp nhập với đội Étoile Bene của công chức để thành lập đội Étoile de Gia-Định tức là đội Ngôi Sao Gia-Định do ông tri huyện Nguyễn Đình Trị dẫn dắt.”

Chú Ba bầy trẻ,

Theo tài liệu cũ này thì Sài-Gòn có đá banh từ mấy năm đó. Rồi sau này có nhiều hội tên tuổi và nhiều lần hội tuyển quốc gia dự các giải quốc tế nữa phải không chú? À này, mỗi lần nhắc đá banh ở Sài-Gòn, tui nhớ Huyền-Vũ quá chú! Cái người trực tiếp tường thuật tại chỗ các trận banh trên ra-dô nghe biết đã. Giọng nói lanh lảnh, nhanh, giòn như chạy theo trái banh nghe mê cái lỗ tai mà phát ghiền. Sau này, tui có nghe nhiều người cũng bắt chước Huyền-Vũ, nhưng không có một lai nào, còn xa lắc xa lơ mới bằng được.

Riêng miệt lục tỉnh, Châu-Đốc, Tân-Châu, Cái-Dầu Thị-Đam đá banh là hết hạng, không đâu bằng. Nhớ lại thời huy hoàng của nền túc cầu miền Nam mà tiếc hùi hụi! Những danh thủ như Ngôn, Thuận, Chiêu, Tam Lang, Thực, Rạng, Can…và nhiều nữa mà tôi quên đã một thời vang bóng!

Chú Ba bầy trẻ,

Nhắc lại nghe chơi chút chút mà cái thơ bữa nay cũng dài. Tui muốn ngừng lại nghe chú Ba để đi ngủ vì thức hai đêm qua mệt quá là mệt. Tui sẽ viết tiếp cho chú thơ sau. Thiệt tình tới giờ này tui cũng không biết vái cho hội nào ăn trận banh Chúa Nhật này đặng ôm cái cúp vàng, vì tui thương cả hai hội Tây cũng như Ba-Tây đó chú! Hồi hộp quá mạng!

Cuối thơ,

Hai Trầu

Một chút tình

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 7 năm 1998

 

Chú Ba bầy trẻ,

Hai đêm nay tui ngủ đã con mắt, nhưng sao hai bên vai nó ê ê quá chú? Tôi sợ mình thức coi đá banh nhiều quá cái phổi bị dơ hay nám gì đây. Ở nhà quê vì cực quá là cực, ăn uống khô hạn, nhiều lúc nuốt muốn dậy cần cổ nên dễ bị bịnh. Khổ một điều mỗi lần bịnh lại cố gượng để cho nó lướt qua, không chịu lo đi thầy trị bịnh. Cho đến lúc đi hết muốn nổi mới lo chạy thầy, uống thuốc thì cũng sắp “hui” nhị tì. Vì vậy, phần lớn người nhà quê mình bị cái bịnh gan, bịnh phổi, bịnh bao tử hoành hành dữ quá chú Ba! Đau ít để lây lất thành đau nhiều, nếu không chết thì người nào người nấy cũng bệ rạc lắm chú à! Tui sao mấy tháng gần đây cũng ễ mình hoài. Nhưng tại cái máu mê đá banh nên nó hành cái thân già ê ẩm như vậy. Có vậy cũng đỡ buồn. Chú thử nghĩ tui từng tuổi này, mà lại ở nhà quê, có gì giải trí ngoài ba cái đá banh này.

Xem thêm:   Chỉ có thể đi chung một đoạn đường

Sáng sáng tui dậy uống trà rồi ra đồng thăm ba cái lúa ướt sương oằn xuống mà vui với ngọn lúa, với giọt sương. Ông bà mình có dạy: “Hãy lấy cái gì mình hiện có làm vui, làm đủ chứ đừng đi tìm cái không thể có làm niềm tin.” Nên tui nghe lời theo ông bà mà vui với hoàn cảnh hiện tại của mình, không mơ mộng chuyện trên trời mà mình vói không tới. Nên anh Hai của chú cũng biết “liệu cơm” mà “gắp mắm” lắm chú Ba!

Sau khi coi xong cái cúp đá banh kỳ này, tui biểu thằng Út chở tui ra phòng mạch bác sĩ Phước ngoài Long Xuyên coi lại cái phổi. Mà cũng ngán dữ nghe chú. Rớ tới bác sĩ là giựt bồ lúa ngộp con mắt. Sơ sơ bác sĩ để cái ống nghe lên tim, lên phổi rồi lấy hai tay gõ bịch bịch vào hai bả vai, nặn nặn cái bụng, lấy cái búa thầu gõ gõ hai cái đầu gối, chích cho mũi thuốc nước trong vắt mình không bao giờ biết tên hiệu thuốc đó là thuốc gì. Vậy mà cũng ba, bốn chục ngàn nghe chú. Đó là tui chưa kể tiền thuốc bác sĩ cho mình uống 5 ngày, cũng bộn. Sau đó, bác sĩ dặn uống hết thuốc trở lại cho ổng coi mạch lại. Bác sĩ không cho toa mua thuốc, nên buộc lòng mình phải trở lại. Nhiều khi phải trở lại đôi ba lần mà bịnh cũng chưa thuyên giảm. Bác sĩ nói để tôi đổi thứ thuốc khác. Đôi lúc mình chạy bác sĩ, chứ bác sĩ không bao giờ chạy bịnh!  Tui ngán là ngán vậy. Tiền thôi là tiền! Nhưng biết làm sao bây giờ? Đau chân phải hả miệng mà! Còn người còn của phải không chú? Nhưng nhiều lúc còn người, nhưng tiền của bay đi đâu mất không bao giờ đòi lại được mà bịnh vẫn còn! Ở Long Xuyên này người ta đồn ông bác sĩ này hay nhất nhưng ổng khám bịnh giá tiền cũng mắc nhất đó chú.

Chú Ba bầy trẻ,

Thôi bỏ qua ba cái vụ bịnh đi chú, kể hoài cũng không hết, nhiều khi còn làm chú lo thêm. Bây giờ trở lại mấy cái thơ trước tui gửi cho chú về các hội banh đá tranh cúp vàng. Chú gọi điện về làm tui giựt mình. Thằng con ông Tám ở vàm Ba Bần chạy vô kêu tui nói có chú gọi dìa, ra nhà nó nói chuyện gấp gấp.

Trời ơi, tui chạy thiếu điều muốn té nhào. Mừng quá là mừng mà cũng hồi hộp quá là hồi hộp! Lâu quá nghe lại giọng nói của em mình không mừng sao được phải không chú? Vậy mà rồi chú hỏi tui đủ điều, tui đâu có kịp trả lời gì. Sợ chú tốn tiền, nên tui nói chú cúp điện đi vì chú cũng đâu có dư dả gì nhiều.

Xem thêm:   Hãng dĩa Việt-Nam & cô sáu Liên

Về nhà tui ngồi nhớ lại buổi nói chuyện mà lòng nghe còn bồi hồi! Chú có nhắc mấy em, mấy cháu trẻ nhưng học giỏi lắm, sau khi đọc hai cái thơ của tui rồi mến và gửi lời thăm tui cùng ông Tám, bà con dưới quê. Mấy em đó còn tính trong bụng phải gần gũi mà gửi kịp kỳ đá banh này, mấy em gửi ít cà phê Ba-Tây cùng sữa bò để cho ông Tám và tui cùng bà con uống cà phê sữa đặng thức mà coi đá banh.

Cảm động quá chú Ba! Em, cháu nó còn trẻ mà còn nhớ dân quê là nó còn thương mình lắm đó chú. Thường thường ở đời người ta ai cũng đi tới, ít khi nhìn lui, người ta nhìn lên chứ ít có người ngó xuống lắm chú à! Nhất là mấy người nhà quê với cuộc sống hẩm hiu trong kinh, trong rạch càng bị bỏ quên, càng bị coi rẻ lắm chú. Người nhà quê cũng là con người, cũng nói cùng tiếng nói, cũng biết điều phải lẽ trái, cũng biết yêu thương, cũng biết nhường cơm xẻ áo, cũng hy sinh, cũng góp một bàn tay xây dựng đời sống nhiều lắm mà, chứ đâu phải vô dụng phải không chú?

Ở vườn hay ở chợ, ở kinh xáng hay ở sông sâu nước chảy, đâu đâu mà người nhỏ còn biết thương yêu, kính trọng người lớn như mấy em, mấy cháu mà chú nói là cái nền đạo đức còn nghe chú! Cái nền mà còn thì cái nhà không ai bứng đi đâu được. Ý tui muốn nói cái nhà Việt Nam đó mà! Mấy em, mấy cháu là măng, tụi mình là tre già rồi! Nay mai người ta đốn rồi, nên phải dưỡng măng mới có những lớp tre kế tiếp mà hữu dụng chứ!

Dưỡng ở đây tui muốn nói là mình phải biết quý trọng tấm lòng của tuổi trẻ. Mình không đưa thế hệ trẻ lên cao quá vì sợ nó té, nhưng mình cũng không muốn lúc nào cũng coi nó còn non nớt. Phải tin cẩn nó mới được. Con tui trong nhà cũng vậy đó chú Ba. Mình phải giao cho nó đôi bò với cái cày, rồi kêu nó ngày mai mầy ra mở vạt mà cày. Đừng sợ nó cày không được, mà chỉ sợ mình không dám giao công việc nhà cho nó. Mới đầu thì luống cày lỏi ra, lỏi vô, chỗ cong, chỗ ngay, nhưng vài ba bận nó quen, mình chạy theo nó không kịp nghe chú! Ông bà ngày xưa dạy hoài: “Con hơn cha, nhà có phước” mà. Lại nữa, có ai lột da mà sống đời, phải không chú Ba? Chú có gặp mấy em, mấy cháu ấy nói tui cùng ông Tám vàm Ba Bần cùng bà con kinh xáng mình gửi lời thăm và cám ơn mấy em nhiều nhe chú.

Chú Ba bầy trẻ,

Cái thơ bữa nay hơi dài, tui ngưng ở đây và hẹn chú thơ sau. Thăm chú thím với sắp nhỏ.

Cuối thơ,

Hai Trầu

(còn tiếp)