“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).
Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.
Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)
Chú theo con đường Cống Quỳnh cặp con sông Cái Khế về ngang cầu Đôi Mới mà ngày xưa bà con ở cái chợ Cần Thơ này gọi cầu Nhị Kiều vì hồi đó có hai cây cầu sắt bắc cặp kè nhau. Dòng nước dưới bến sông chảy lững lờ làm chú nhớ cái Tết Mậu Thân thây ma trôi lềnh bềnh phát ớn.
Theo con đường Cống Quỳnh này, chú nghe tiếng chuông công phu của chùa Sư Nữ phía bên kia sông làm lung linh mặt nước đang lặng lờ chảy ra sông Cái. Rồi vườn Thầy Cầu với những trái sầu riêng gai chơm chởm làm chú nhớ thuở nhỏ theo bạn bè đi dạo vườn cây trái sau những ngày thi căng thẳng nhức đầu. Tiếng chuông chùa Sư Nữ, những bóng mát vườn sầu riêng bây giờ cũng lạ hoắc lạ huơ cháu Thu à!
Vậy mà rồi, chú ở Cần Thơ hai ngày hai đêm, hai ông cháu mới dìa trển qua ngã Vĩnh Long. Chiếc bắc cũ máy chạy sình sịch trôi theo dòng nước xiết một đỗi mới rà rà vào chiếc cầu tàu như cái phao nổi. Chú đi qua Cái Vồn, Bình Minh nhìn hai bên ruộng gió vờn vờn mát rượi. Chú nhớ như quê ngoại của cháu đâu khúc đường này. Chú ngó tới, ngó lui, dòm qua, dòm lại có ý kiếm tìm mấy người cậu, người dì của cháu, nhưng chú không thấy cháu Thu à. Cháu biết tại sao không? Vì vùng này cũng chưa tới mùa lúa chín, chưa tới lúc lúa thóc phơi trên đường lộ xe hơi. Chú cũng không gặp “người bán cà rem dạo” ở chợ Cái Vồn, Bình Minh. Nghe đâu bà con ở đây kể lại ổng cũng đi qua Mỹ lâu lắm rồi. Hỏi thăm, vài người bên đường họ nói “người bán cà rem dạo “này, ngày xưa ổng bán cà rem miệt Cái Vồn thường lắm. Ổng đi ngang quê ngoại của cháu hoài hà.
Quê xưa vẫn vườn, vẫn tược, vẫn lúa, vẫn rẫy, vẫn những người lam lũ ngược xuôi như hồi cháu còn ở dốc cầu Cái Khế về bên kia sông thăm ông bà ngoại, thăm mấy cậu, mấy dì… Cháu còn nhớ cái vùng Cái Vồn, Bình Minh này không cháu? Cháu còn nhớ con đường nào đi tắt về ngay sau hè nhà ông ngoại, bà ngoại của cháu không? Có cây cầu khỉ lắt lẻo bắc ngang con mương vườn đó mà.
Vì gấp quá, nên chú không tiện ở lại Cái Vồn lâu lâu chút nữa. Hai ông cháu chạy vòng qua Vĩnh Long, lên Mỹ thuận, Cái Tàu Hạ, Nha Mân, Sa Đéc, Hòa Long, Vĩnh Thạnh, Lấp Vò, Vàm Cống, Long Xuyên rồi mới về Ba Bần, kinh xáng Bốn Tổng là xứ Định Mỹ, núi Sập của chú tự hồi chú còn nhỏ tới giờ.
Đi một vòng chữ O như vậy mệt đừ nhưng về tới nhà nằm trên cái võng bằng bố da treo lủng lẳng dưới bụi tre xiêm, chú thấy cái bụi tre xiêm của mình vậy mà yên ổn.
Rồi mấy bữa nay hơi khỏe khỏe, chú cũng ngồi dưới bóng đèn dầu leo lét viết cho cháu cái thơ này như gợi cho cháu nhớ vài cảnh cũ. Cháu nhớ được cảnh nào thì nhớ, vì hồi cháu đi bên bển, lúc đó cháu còn quá nhỏ mà, cô bác không ai chấp nhất em cháu làm gì. Nhưng dù bao nhiêu tuổi, khi đã có lòng với cố hương rồi, cho dù lưu lạc tới chốn nào đi nữa, cố hương vẫn ở mãi trong lòng, chứ có kiếm tìm ở đâu xa. Phải vậy hông cháu Thu?
Cái thơ cho cháu lan man vậy mà cũng hơi dài. Chú cầu chúc cháu học hành giỏi giắn là cô bác mừng rồi. Học để cho cha mẹ cháu vui, mà cũng nhờ cho tấm thân của cháu nữa đó! Cho chú có lời thăm ba mẹ cháu mạnh khỏe. Để làm lúa Đông Xuân rồi, rảnh rảnh chú sẽ viết cho cháu cái thơ khác đọc chơi…
Cuối thơ,
Hai Trầu
(*) Hai câu đầu trong bài thơ “Sợi Tóc Nhớ Nhung” của nhà văn Trần Hoài Thư. (Trích trong thi phẩm “Thơ Trần Hoài Thư” 1998)

Đập Đã Chào Sân (Dachaosan) trên đầu nguồn sông Mekong ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. nguồn VOA
Lương nông tích địa lực(*)
Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng 4 năm 1999
Chú Ba bầy trẻ,
Lâu quá rồi tui không biên thư cho chú vì công việc đồng áng cũng bận quá là bận chú Ba. Vừa ra khỏi Tết mấy ngày là bắt đầu gây vào cắt gặt lúa Đông Xuân. Như trong mấy cái thơ trước, tui có viết cho chú về tình trạng nước năm nay quá nhỏ nên lúa mùa này bị thất bát quá chú Ba à. Mỗi công tầm cắt chưa đầy ba mươi giạ. Giá lúa lại rẻ rề. Đầu mùa mà lúa chỉ có ba chục ngàn đồng một giạ. Trong khi đó, mọi thứ như xăng dầu, phân lạnh, phân tiêu đen, phân tiêu sữa, phân kali đều tăng lên vùn vụt. Rồi còn thuế má nữa, nên làm ruộng bây giờ cũng như hồi chú còn ở nhà là lấy lúa cũ đổi lúa mới chứ không lời lóm gì. May lắm là mình huề vốn nghe chú. Miễn cỏ lác nhiều hay sâu rầy tàn phá vài bận, cầm bằng thua lỗ, nợ nần ngập cổ, ngập lưng!
Ôi thôi, coi vậy mà cái nghề làm ruộng bây giờ như trò giỡn tiền chú Ba à. Tiền của trong nhà có bao nhiêu đem quăng ráo ra ngoài đồng như thí tiền vàng bạc mấy kỳ rằm tháng Bảy ở chùa Tân An của ông Đạo Cậy vậy mà. Tiền quăng dưới gốc lúa mà lượm lại được cũng trầy vi trốc vẩy chứ chẳng phải chơi. Mùa này làm là để dành mùa sau, mùa sau làm là để dành mùa tới. Cứ thế mà một năm ba mùa liên tục rồi trong nhà nhiều lúc không có gạo ăn Tết chứ đâu phải là chuyện nói chơi.
Ông bà xưa có dạy “tận nhân lực mới tri thiên mạng” nhưng đất nào tốt cách mấy đi nữa mà làm liên tục không cho đất nghỉ ngơi lấy sức, thì thất ruộng là cầm chắc. Hồi đời xưa chú còn nhớ Tô Đông Pha khi dìa làm ruộng ở Hoàng Châu lúc bị đày có viết câu thơ “lương nông tích địa lực” có nghĩa là “người làm ruộng giỏi phải biết tiếc sức của đất”? Chứ cứ sẵn đất cấy sạ hoài mà không bồi bổ, không cho đất nghỉ lấy hơi, lấy đâu có khoảng bồi hoàn cho đất màu mỡ lại được.
Đó là tui chưa kể gió mưa, nước nôi, phân phướng, trăm thứ trăm lo mà sức mình lại có hạn thì làm sao mà lo cho nổi. Nhưng ngặt một đỗi là mình làm ruộng là làm ruộng theo bà con chung quanh, đâu phải tự ý mình làm theo mình được. Người ta làm mà mình không làm theo, đất bỏ hoang cho cỏ mọc, đầu trên xóm dưới kêu rêu mình để cỏ cho chuột bọ ở phá hại mấy miếng lúa chung quanh, có nước độn thổ mà trốn chứ mặt mũi nào dám nhìn hàng xóm láng giềng.
Do vậy mà làm lúa 3 mùa kéo chùm, chạy tiền chạy nợ mệt muốn ứ hơi. Như năm rồi chú Ba à, Tết với Nhứt gì nổi. Mấy ngày Tết dân làm ruộng lặng lẽ lắm vì tiền nằm ngoài miếng lúa còn xanh. Không thấy ai đi bắt cờ bạc, đá gà vì có ai đánh bài, đánh bạc, đá gà đâu mà bắt với bớ.
Trời thần ơi, ba cái lúa thất vì con nước năm rồi nhỏ. Tui có coi báo, kể từ năm 1926 đến nay, mùa nước lụt năm rồi là mùa nước nhỏ nhất. Mực nước theo mấy trạm đo ngoài sông cái, nước ở dưới mức ghi 3 thước. Mà chú biết tại sao năm rồi nước nhỏ hơn mọi năm không? Cũng tại con nhiều cha nên cha nào cũng muốn chiếm lấy phần hơn đó chú Ba à. Nguyên nhân vì con sông Cửu Long là con sông chung của nhiều nước mà mình nằm ở phần cuối cùng tuốt dưới này giáp với biển Thái Bình Dương. Mấy cái nước đầu trên mạnh ai nấy đắp đập ngăn sông, ngăn nước lại nên làm sao nước tràn xuống mình như mấy năm trước được. Trong đó hai nước Thái và Tàu là hại mình nhiều nhất. Chỉ hai cái đập chận nước với cái tên gì mà tui đọc không được, chỉ ghi lại theo tờ báo là Kok-Ing-Yon-Nan, Khong-Chi-Mun của nước Thái Lan thôi, mà năm rồi miếng đất gần mả ông nội khô khốc, mình phải mướn bò cày lại thì thấy nguy rồi.
Từ hồi tui biết tới bây giờ chưa có năm nào mà mùa nước lụt lại nhỏ như vậy. Mùa nước lụt mà nước không bò vô tới mé vườn thì tránh sao khỏi lo lắng đây. Nay nghe nói bên Tàu định đắp thêm 7 cái đập nữa, dân làm ruộng mình ở phía dưới này ai cũng hỡi ôi ráo trọi. Mà dường như, họ đã đắp rồi một cái đập tên gì lạ lắm chú Ba à, Man Wan gì đó, đã xong đâu 4, 5 năm gì rồi. Còn một cái đập nước khác bắt đầu đâu hồi năm 1996, chắc năm tới mới xong, năm 2000 đó mà. Cái đập này có tên nghe ngồ ngộ Đã Chào Sân (Dachaosan).
Năm này nghe nói là năm “tận thế”, mà nước nôi thiếu hụt như vầy sao tui lo quá chú. Không biết có tận thế thiệt hông? Âu mọi việc cũng là do Trời hết chú Ba, đâu có ai biết chắc chắn chuyện gì khi nó chưa có. Phải vậy hông chú? Nước nôi không ngập ruộng, làm gì có bùn, làm gì có phù sa bồi bổ cho đất tốt, lúa xanh. Vậy là lúa phải chịu thất và dân ruộng mình đành bó tay chịu thiệt thòi trăm thứ trước cảnh chận sông, ngăn đập này…
Chú Ba bầy trẻ,
Thôi để qua một bên ba cái vụ nước nôi với ruộng lúa đi chú Ba. Rồi có gì tui sẽ viết thư tiếp cho chú. Mùa lúa lỡ kỳ này, mấy đứa con tui, tụi nhỏ đã sạ lại được mười bữa rồi. Nói hoài vụ làm ruộng, làm tôi say sưa quên báo tin tức trong nhà cho chú rồi lại trễ nải.
Số là, thời buổi này con cháu, nhất là mấy đứa cháu nội không còn ai. Anh Năm Tờn, anh Sáu Liêng con cậu Hai, anh Hai Ngoạt con cậu Ba… người nào cũng qua đời hết rồi. Còn tui với chú là cháu ngoại nên mình phải đứng ra lo tu sửa mồ mả ông bà, chứ còn ai đâu mà lo việc này. Cháu con bây giờ, mấy đứa nhỏ cũng con cái đầy đàn, nheo nhóc, nghèo sặc máu, nên thân nó mà nó lo còn không nổi làm gì nó lo chuyện lớn lao. Vì vậy mà ngày 19 tháng Hai âm lịch này là ngày Thanh minh, tui dự định tu bổ, sửa sang lại hai ngôi mộ của ông Ngoại, bà Ngoại mình trên Mặc Cần Dưng chú Ba à.
Nhớ hồi đó, lúc tui với chú còn nhỏ, năm nào má cũng dắt tui với chú dìa ngoại ba ngày Tết. Ông bà Ngoại mình hiền đức lắm. Ông ngoại thường mở ruột tượng lấy tiền lì xì cho hai anh em mình. Nhưng hồi xưa, tiền xu, tiền điếu gì không hà, mà hai anh em mình cũng đâu có biết xài tiền. Nghĩ con nít hồi thời xa xưa thiệt là con nít rặt hén chú Ba. Còn bà Ngoại cắp nắp cho má đủ thứ vì nghĩ má mình ở xa, thiệt thòi hơn mấy cậu. Rồi má kể, bà ngoại mình mất độ 3 tháng, ông ngoại buồn quá nên lâm bịnh và mất theo.
Bây giờ mình già rồi, biết ra mà thương ông bà mình quá nghe chú. Đời xưa, cái nghĩa chồng vợ nó nặng đến như vậy và thủy chung cho tới lúc chết cũng thương cảm mà chết theo cho trọn đạo vợ chồng.
Ca dao mình có truyền lại: “Cồng cộc mò cá dưới sông, mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ” là tại ngày xưa phong tục của mình trọng nam khinh nữ đó chú Ba à. Tui còn nghe nói “con gái ăn cơm nguội, ở nhà ngoài” nên cháu ngoại làm sao mà có chỗ để giỗ bên ngoại.
Nói là nói vậy, theo lệ của ông bà mình, con trai nối dõi tông đường nên phải lo trong lo ngoài, còn con gái xuất giá theo chồng, sanh con cho bên chồng, lo cho bên chồng mọi bề nên người xưa mới đặt ra câu ca dao như vậy. Chớ còn con cháu mà có hiếu đễ rồi, nội ngoại đều tương tề, không bên nào trọng, bên nào khinh. Ông Nội, bà Nội, hay ông Ngoại, bà Ngoại đều là những tổ tông của mình chú Ba à. Có tổ tông mới nhỏ giọt đến đời mình, đời con cháu mình sau này. Nên tui muốn nhắc việc này để nhắn với mấy đứa con của chú bên bển là dù làm gì thì làm, các cháu nên nhớ ông bà bên nội, bên ngoại mới được. Cây có cội, nước có nguồn mà, huống hồ gì con người.
Thôi vài hàng tin tức vậy để chú rõ việc nhà cửa, lúa thóc bên này mà yên tâm. Thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi.
Cuối thơ,
Hai Trầu
(*) Trích bài thơ thứ 5 của Tô Đông Pha trong tám bài thơ tự sự tựa là “Đông Pha Bát Thủ”:
Hạnh thử thập niên hoang
Tang giá vị cập thành
Nhất mạch thử khả vọng
Đầu chủng vị dũ nguyệt
Phúc khối dĩ thương thương
Nông phu cáo ngã ngôn
Vật sử miêu diệp xương
Quân dục phú bính nhĩ
Yếu tu tùng ngưu dương
Tái bái tạ khổ ngôn
Đắc bão bất cảm vong.”
Bản dịch của thầy Tuệ Sỹ:
“Nhà nông giỏi thì biết tiếc sức của đất
Đất này nhờ mười năm bỏ hoang,
Dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn
Có thể mong được một mùa lúa mạch
Gieo giống chưa đầy tháng
Đã thấy xanh mượt trên các gò đất
Nông phu bảo ta rằng
Đừng để lá mạ lên hết mức
Nếu anh muốn giàu bánh trái
Nên thả trâu ra
Lại bái tạ lời thiết tha đó
Được no cơm, sẽ không dám quên.”
(còn tiếp)









