Một buổi chiều ở Đà Lạt chúng tôi viếng thăm lăng mộ ông bà Nguyễn Hữu Hào, nằm trên một đồi thông rất đẹp, dễ tìm thấy bằng bản đồ Google. Theo các tài liệu thì đây là nơi chôn và thờ ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình, song thân của Nam Phương Hoàng Hậu.

Nhà lăng mộ
Từ lối vào có 4 trụ biểu, chúng tôi theo những bậc cấp lên cao dần. Nắng chiều còn rỡ tươi và quang cảnh bên dưới không mang vẻ u tịch của một khu lăng mộ nhưng càng lên cao, chúng tôi cảm nhận được sự quạnh hiu, hoang tàn, lạnh lẽo nơi này. Mọi thứ đơn sơ từ tượng 2 con sư tử đá cho đến nhà bia, mộ… Trên một sân rộng có một tấm bia đá khắc chữ Hán. Trên mái ngói lăng mộ chính giữa có cây thập giá. Bên trong có 2 ngôi mộ bằng đá, hình chữ nhật. Một hương án giữa hai ngôi mộ. Phía sau có một cửa vuông rộng nhìn ra nhà bia nhỏ có tấm bia bằng đá, trên khắc chữ Hán.
Cho đến khi đọc cuốn sách “Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại”(1) của hai tác giả Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thuý tôi thấy khá nhiều thông tin mới, khác với những thông tin trong các tài liệu cũ.
Theo lời nhà xuất bản thì hai tác giả đã ròng rã suốt 3 năm trời thực hiện nhiều chuyến đi đến những nơi lưu dấu của Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương ở Việt Nam như: Sài Gòn, Tiền Giang, Thủ Đức, Chợ Lớn, Biên Hòa, Đà Lạt, Kon Tum, Quy Nhơn, Huế, Hà Nội… cùng những chuyến đi ở Pháp, đến những nơi nhà Vua, Hoàng hậu đã đi qua, sinh sống để tìm tư liệu, gặp nhân chứng và hậu duệ của những người cùng thời, phỏng vấn nhiều nhân chứng trong và ngoài nước… Tôi trích một phần nhỏ nói về lăng mộ ông Nguyễn Hữu Hào, đối chiếu với những thông tin trên mạng.

Trụ biểu dẫn lên lăng mộ
Long Mỹ Quận công
Theo Wikipedia, ông Nguyễn Hữu Hào vốn là một đại điền chủ giàu có, quê quán tại Gò Công (nay thuộc phường Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức). Ông kết hôn với bà Lê Thị Bình, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu có nhất Việt Nam thời bấy giờ.
Thì trong sách, phần về Long Mỹ Quận công (trang 211):
“Ông Pierre Nguyễn Hữu Hào, thân phụ Hoàng hậu Nam Phương là người sống rất kín đáo, không phô trương, nên không ai biết nhiều về nguồn gốc gia đình ông. Nhờ gia đình rất mộ đạo, có hai người anh chị đang là tu sĩ, nên Pierre Nguyễn Hữu Hào được Giám mục Mossard, lúc đó phụ trách Giáo xứ Tân Định, biết đến và giúp vào học tại Tiểu Chúng viện Sài Gòn, nơi Giám mục Mossard từng giảng dạy. Học xong tại Tiểu Chủng viện, Pierre Nguyễn Hữu Hào lại được giới thiệu vào làm việc cho gia đình Lê Phát Đạt rồi may mắn chiếm được cảm tình của cô Marie Lê Thị Bình, thứ nữ của gia chủ. Ông Lê Phát Đạt mất năm 1900, lễ cưới giữa Pierre Nguyễn Hữu Hào và Marie Lê Thị Bình được cử hành hai năm sau đó.
Theo tờ khai kết hôn lập tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12-11-1902 thì Pierre Nguyễn Hữu Hào, 32 tuổi, sinh ngày 1-7-1870 tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn, nghề nghiệp: giáo viên tại trường Taberd, cư ngụ tại Sài Gòn, con của Nguyễn Văn Cường và Lê Thị Thương, cả hai đều đã mất; Marie Lê Thị Bình, 23 tuổi, sinh ngày 17-2-1879 tại Sài Gòn, cư ngụ tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn, con của Philippe Lê Phát Đạt (mất) và Agnès Huỳnh Thị Tài, nghiệp chủ, cư ngụ tại xã tân Hòa, Chợ Lớn, hiện có mặt….

Đường lên khu lăng mộ
Sau khi cưới con gái nhà Huyện Sỹ Lê Phát Đạt, với sự giúp đỡ của gia đình nhà vợ và với khả năng kinh doanh của mình. Ông Pierre Nguyễn Hữu Hào trong vòng hơn 10 năm từ hai bàn tay trắng đã tích lũy được một tài sản khá lớn”.
Ông có hai người con gái là Marie Agnès Nguyễn Hữu Hào, tên Việt Nam là Nguyễn Thị Hương, sinh ngày 13-8-1903 và Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, tên Việt là Nguyễn Thị Lan, sinh ngày 14-11-1913 (sau này là Nam Phương Hoàng hậu). Cuốn sách giải thích khá chi tiết về ngày sinh và tên thật của Nam Phương Hoàng hậu với những phân tích khá thú vị khác với tất cả các tài liệu xưa nay: tên của hoàng hậu là Nguyễn Hữu Thị Lan và ngày sinh là 4-12-1914.
“Từ khi cô Mariette Nguyễn Thị Lan lên ngôi hoàng hậu, ông Pierre Nguyễn Hữu Hào nghiễm nhiên trở thành Quốc trượng – cha vợ của vua – được sự kính trọng của các giới chức trong chính quyền Pháp và Nam. Tuy vậy, ông vẫn giữ một nếp sống khiêm tốn và kín đáo.
Tháng 5-1935, triều đình cử Thượng thơ Bửu Thạch, Đại Nội Nghi lễ Đại thần, Khâm mạng Hoàng đế, cùng với thương tá Ngự tiền Văn phòng và hai quan chức Bộ Lễ lên Đà Lạt làm lễ phong tước Long Mỹ Hầu, cùng lúc trao huân chương Long bội tinh đệ tam đẳng cho Quốc trượng Nguyễn Hữu Hào. Nhân dịp này, bà Nguyễn Hữu Hào cũng được phong tước Mệnh phụ Nhị phẩm Phu nhân…

Lăng mộ và nhà bia
Tháng 6-1937, có tin Long Mỹ Hầu Nguyễn Hữu Hào lâm bệnh, phải đưa vào Sài Gòn chữa trị. Hoàng hậu Nam Phương từ Đà Lạt về thăm. Khi thấy bệnh tình có vẻ suy giảm, Hoàng hậu trở về Đà Lạt.
Ngày 30-8-1937, Vua Bảo Đại phong tước Long Mỹ Quận công cho ông Nguyễn Hữu Hào, đồng thời bà Nguyễn Hữu Hào cũng được sắc phong Mệnh phụ Đệ nhất Phu nhân. Trong khoảng thời gian này, chính phủ Pháp trao Ngũ đẳng Bắc đẩu bội tinh cho ông Nguyễn Hữu Hào.
Hai tuần sau đó, Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần đêm 13-9-1937 tại Sài Gòn. Pierre-Édouard Biénès, Đổng lý Văn phòng Thống đốc, thay mặt Thống đốc Nam Kỳ Jules Brévié, cùng với Émile Grandjean, Giám đốc Sở Chính trị phủ Toàn quyền, đến viếng linh cữu và chia buồn cùng tang quyến. Sau khi tẩn liệm và cử hành thánh lễ tại Nhà thờ Đức Bà, quan tài được chở lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa đặc biệt.
Lễ an táng được cử hành tại Đà Lạt ngày 19-9-1937.
Theo các tài liệu chính thức, cũng như trong tờ khai kết hôn lập tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12-11-1902 thì Pierre Nguyễn Hữu Hào sinh ngày 1-7-1870 tại xã Tân Hòa, Chợ Lớn. Như vậy, ông Nguyễn Hữu Hào mất năm 67 tuổi. Tuy nhiên, theo gia phả do gia đình bà Agnès Nguyễn Hữu Hào cung cấp thì năm sinh thật sự của ông Nguyễn Hữu Hào là 1866. Không biết vì lý do gì mà trong giấy tờ chính thức, ông Nguyễn Hữu Hào được khai trẻ đi bốn tuổi. Nhưng khi ông mất, báo chí loan tin đúng với tuổi thật là ông Nguyễn Hữu Hào thọ 71 tuổi”.

Bia ở sân
Lăng Nguyễn Hữu Hào
“Khi ông Pierre Nguyễn Hữu Hào mất, gia đình đã tìm một địa điểm để xây lăng mộ cho ông. Khu đất được chọn là một đồi thông gần thác Cam Ly. Con đường từ chân đồi dẫn lên lăng gồm 158 bậc. Lăng xây theo kiểu kiến trúc Á Đông, mái ngói lưu ly xanh, trong lăng xây hai ngôi mộ lớn bằng đá xanh đặt song song, hình chữ nhật, mặt phẳng, cao khoảng 30 cm. Đứng phía trong nhìn ra, ngôi mộ bên phải chôn hài cốt ông Nguyễn Hữu Hào, ngôi mộ bên trái dành để chôn cất bà Lê Thị Bình sau này. Việc xây cất khởi đầu từ năm 1937, bốn năm sau, năm 1941 thì hoàn tất….
Lễ quy lăng diễn ra tiếp theo đó tại khu lăng mộ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào với sự có mặt của Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, bà Long Mỹ Quận công phu nhân, bà Agnès cùng chồng, Nam tước Pierre Didelot, Tổng Giám mục Antonin Drapier, Khâm sứ Tòa thánh tại Đông Dương, Giám mục Jean Cassaigne, Đại diện Tông tòa Hạt đại diện Tông tòa Sài Gòn; về phía chính quyền bảo hộ có Toàn quyền Georges Catroux và bà Suzanne, Khâm sứ Trung Kỳ Émile Grandjean và một số đông quan chức chính quyền bảo hộ và triều đình Huế…
Hơn 20 năm sau, bà Lê Thị Bình từ trần tại Pháp năm 1964 và được an táng trong nghĩa trang của thị xã Neuilly-sur-Seine, ở ngoại ô Paris. Ngôi mộ bên trái trên khu lăng mộ Đà Lạt vẫn còn để trống. Trên đồi thông bốn bề lộng gió, ông Nguyễn Hữu Hào mãi mãi cô độc”.

Hai ngôi mộ
Bài và hình ĐTTT
(1)“Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại” của Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thuý – Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, năm 2024