Ngày 18/10/1917, Maxim Gorky viết trên tờ Sống Mới (Новая Жизнь) về tin đồn là hai ngày tới phe Bolshevik sẽ ra tay. Ông hình dung ngay “một đám đông vô tổ chức, bản thân mình muốn gì còn không biết, sẽ ào ra đường, kéo theo một lũ phiêu lưu, trộm cướp và giết người chuyên nghiệp để đi làm công cuộc lịch sử là cách mạng Nga”.Ông đoán, hẳn cũng như trong vụ bạo loạn thất bại hồi đầu tháng Bảy, rồi tất cả những bản năng tăm tối của một đám đông đã thấm đẫm độc ác, hằn thù và khát máu sẽ lại được thổi bùng, và khi sự ngu si thú vật xổng chuồng thì con người chỉ còn đè nhau ra chém giết. Ông đòi Trung ương Ðảng Bolshevik phải lên tiếng chặn đứng tin đồn khủng khiếp ấy.
Nếu Cách mạng tháng Mười là một tin đồn, có lẽ chiến tranh Ukraine bây giờ đã không xảy ra, nhận định của triết gia Nga Semyon Frank rằng mọi tai họa của thế kỷ 20 khởi nguồn từ biến cố ấy sang thế kỷ này vẫn còn hiệu lực. Song những người Bolshevik chẳng những không cải chính mà trên tờ Sự Thật (Pravda), Stalin còn đắc chí xỉa xói: Gorky và đám trí thức yếu bóng vía ở Sống Mới muốn gì? Muốn biết trước ngày khởi nghĩa để nhanh chân vù sang Phần Lan chắc? Ðừng cậy danh tiếng, cách mạng Nga chẳng nghiêng mình trước tên tuổi vĩ đại nào đâu. Ðúng một tuần sau, Chiến hạm Rạng Ðông nổ pháo lệnh tấn công Cung điện Mùa Ðông, hiện thực chỉ chậm hơn tin đồn năm ngày.
Maxim Gorky, con chim báo bão của cách mạng vô sản, không “vù” đi đâu mà có mặt ở cả hai tâm bão, Petrograd và Moskva, trở thành chứng nhân của “mười ngày rung chuyển thế giới” từ một góc nhìn khác. Trong gần 60 bài báo nhan đề “Những suy tư bất hợp thời” nóng bỏng, ông tiếp tục kịch liệt phê phán cuộc cách mạng Bolshevik, thẳng thừng vạch mặt chỉ tên Lenin, người mà ông từng đồng hành và gắn bó, cho đến khi tờ Sống Mới bị Lenin đích thân ra sắc lệnh cấm cuối tháng Sáu 1918. Ông viết: “Lenin, Trotsky và đồng đội đã bị ngấm nọc độc hủ bại của quyền lực; thái độ ô nhục của họ về tự do ngôn luận, tự do cá nhân và mọi quyền tự do khác, vốn là lý tưởng tranh đấu của nền dân chủ, đã chứng tỏ điều đó. Những kẻ cuồng tín mù quáng và đám phiêu lưu bất lương đã vội vàng phi thẳng đến cái gọi là ‘cách mạng xã hội’. Nhưng trong thực tế, đó là con đường dẫn đến vô chính phủ, dẫn đến sự hủy diệt giai cấp vô sản và cách mạng vô sản. Trên con đường ấy, Lenin và đồng đội đã sẵn lòng chấp nhận mọi tội ác, như vụ thảm sát ở Petrograd, vụ hủy diệt ở Moskva, việc xóa bỏ quyền tự do ngôn luận và hàng loạt vụ bắt bớ. Lenin chỉ theo đuổi một cuộc thử nghiệm trên da thịt của giai cấp vô sản và bằng máu của giai cấp vô sản, chỉ muốn đẩy tinh thần cách mạng của họ đến tột cùng để xem điều gì sẽ diễn ra.” Nhiều lần ông nhấn mạnh rằng những gì tinh túy nhất của giai cấp vô sản sẽ bị nướng trụi trong cuộc thử nghiệm tàn bạo đó, song nghiêm trọng hơn cả là trong một thời gian rất dài, sau thất vọng ê chề về lý tưởng cộng sản cao đẹp, giai cấp tiên phong của dân tộc Nga sẽ mất toàn bộ ý chí và viễn kiến về tương lai. Ông khẩn thiết kêu gọi công nhân Nga đừng giơ đầu chịu báng, đừng để mình bị lôi kéo vào cuộc cách mạng giả trá đang diễn ra, vì đó chỉ là cú phóng hết ga lao xuống vực thẳm của một nhóm phiêu lưu cuồng tín bất chấp cả danh dự lẫn sinh mệnh của người vô sản. Và trước hết, đừng đặt lòng tin vào Lenin, bởi ông ta không phải là một nhà ảo thuật quyền năng mà chỉ là một vai hề máu lạnh, kẻ quả thật có những phẩm chất xuất chúng nên đã tự cho phép mình cái quyền chơi một ván cược mạo hiểm trên lưng dân Nga, một dân chúng mà ông ta – vốn xuất thân quý tộc – chưa từng cùng cảnh ngộ, chỉ biết qua sách vở nhưng rất hiểu cách chiếm đoạt tâm hồn họ, xách động họ, quất cho những bản năng thú vật của họ lồng lộn, bởi lẽ cách lôi kéo người Nga dễ nhất là cho họ quyền được đê tiện. Người Nga mà 85% là nông dân cùng quẫn, u mê, nát rượu, nóng nảy, gian trá và chỉ mơ thành Kulak không thể là đồng minh mà ngược lại, chính là kẻ đào mồ chôn cuộc cách mạng của giai cấp vô sản. Ván cược lịch sử của những người Bolshevik chỉ làm ô danh giai cấp vô sản, đẩy nước Nga vào cơn ác mộng của đói khát, bạo lực, tù đày, cấm đoán, kích thích tất cả những thú tính kinh hoàng nhất mà người Nga tích tụ dưới thời Nga hoàng và triệt tiêu tất cả sức mạnh trí tuệ và năng lượng đạo đức của đất nước này. “Lenin không phải là người được lịch sử giao phó sứ mệnh xới tung cái tổ kiến tồi tàn hỗn loạn mà thế giới gọi là nước Nga này. Ông ta chỉ dùng nước Nga làm mẻ vật liệu đầu tiên cho một cuộc thử nghiệm toàn thế giới.”
Ðó là những nhát búa tạ, không phải “một vài bất đồng nhất thời” như sau này các linh mục của giáo phái văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa – mà Gorky là giáo hoàng – khéo léo né tránh. Khi Khủng bố Ðỏ dâng cao, hàng loạt nhân vật danh tiếng trong vòng thân quen nhất của Gorky bị bắt và hành quyết, đồng thời xung đột trong mối quan hệ đầy thăng trầm giữa Gorky và Lenin cũng lên tới đỉnh cao, nhà văn cuối cùng phải ra đi để nhà độc tài ở lại. Nhưng Gorky không bị cưỡng bức di tản, dồn lên năm chiếc tàu mà sau này nổi tiếng dưới tên “Ðoàn tàu Triết gia”, mỗi người được mang theo hai bộ quần áo, như hàng trăm trí thức Nga khác, trong đó có các triết gia Ivan Ilyin, Nikolai Berdyaev, Lev Karsavin, Semjon Frank, Nikolay Lossky… Ông cũng không chọn lưu vong như 1.2 triệu người Nga khác, trong đó có những tên tuổi nay thuộc về di sản văn hóa thế giới: Vladimir Nabokov, Isaiah Berlin, Ivan Bunin, Roman Jakobson, Wassily Kandinsky, Marc Chargall, Sergei Rachmaninoff, Alexander Alekhine, Sergei Diaghilev… Ông ra đi với danh nghĩa chữa bệnh ở những vùng nghỉ dưỡng nổi tiếng tại Ðức, Tiệp và Ý, một phần do Vụ Ngoại thương Sô-viết đài thọ, giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ cánh tả phương Tây và ấm áp trong vòng tay của gia đình cùng người tình Moura Budberg, người đàn bà bí ẩn – cho đến bây giờ không ai rõ vai trò của bà trong cả cuộc sống lẫn cái chết của hai văn hào lẫy lừng mà bà lần lượt và thậm chí có lúc đồng thời chung sống: Maxim Gorky và H.G. Wells -, có thể là một Mata Hari phiên bản Nga, điệp viên ba mang của cả Liên Sô, Anh và Ðức.
Sau bảy năm tránh bão, Gorky về nước. Lenin đã là một xác ướp trong lăng và hàng ngàn tượng đài bên ngoài. Vợ ông, bà Krupskaya kiên trung, đã đưa xong Platon, Descartes, Kant, Schopenhauer, Nietzsche, Dante, Cervantes, Talmud, Kinh Cô-ran và Kinh Thánh vào danh mục sách cấm để các thế hệ tương lai không còn bị đầu độc. Cách mạng đã nuốt xong bầy con đầu và đang chờ lứa sau mau lớn. Trotsky đã bị trục xuất. Xã hội Sô-viết đã nằm im dưới gót ủng của Stalin, phần còn chút cựa quậy sẽ đơn giản là những con số trong mỗi ngày trên dưới 1000 án tử hình của hai năm Ðại Khủng bố sắp đến.
Song Gorky về nước, nhận Huân chương Lenin, biệt thự ở thủ đô và dacha ở ngoại ô, vào Trung ương Ðảng, trở thành Chủ tịch Hội Nhà văn Sô-viết, khai sinh dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, lĩnh xướng dàn đồng ca cách mạng, dẫn đầu cuộc đấu tranh chống mọi tư tưởng phản động trong văn nghệ, và làm bệ cho những tham vọng bác học của Stalin, bạo chúa mê lý luận hàn lâm và nghệ thuật. Tai họa của giới văn nghệ sĩ trí thức ở phần lớn các quốc gia cộng sản gắn liền với sở thích học giả và thơ ca đàn sáo tranh pháo của các nhà lãnh đạo chính trị tầng cao. Buổi gặp mặt tròn 15 năm sau Cách mạng tháng Mười, ngày 26/10/1932, tại dinh thự lộng lẫy của Gorky ở Moskva – một trong những công trình Art Nouveau đẹp nhất của kiến trúc sư tài năng Fyodor Schechtel, thiết kế riêng cho gia đình triệu phú Ryabushinsky, một doanh nhân và chính khách tư sản đã đào thoát ra nước ngoài – đi vào lịch sử trong sự mộ điệu quái gở ấy. Những đại diện sáng giá nhất của văn đàn Sô-viết ngồi bên bàn ăn phủ khăn thắp nến, kính trọng và run sợ, nguyền rủa và biết ơn, và trên hết là ghi lòng tạc dạ lời chỉ đạo thân mật của đấng cứu thế trong bộ quân phục nền xanh nẹp đỏ. Stalin yêu cầu các nhà văn phải là những “kỹ sư tâm hồn”, vì “sản xuất tâm hồn quan trọng hơn hẳn sản xuất xe tăng, các đồng chí rõ chưa?”. Ðúng thôi, xe tăng khi đó chưa cần. Sản phẩm nổi tiếng nhất của chuyên chính vô sản Sô-viết thập niên hòa bình ấy là hệ thống Gulag. Không ai khác, chính Gorky đã đập tan mọi tin đồn độc địa ở phương Tây về quần đảo địa ngục ở thiên đường vô sản bằng một phóng sự hân hoan khi đến thăm trại cải tạo điển hình ở Solovski, nơi “các tù nhân được hưởng một cuộc sống tuyệt vời và một sự giáo dục tuyệt vời”, nơi những phần tử lầm đường lạc lối nhờ lao động mà phục hồi nhân phẩm và trở thành những con người mới của chế độ mới. 30,000 tù nhân hạnh phúc đó đã bỏ mạng cho công trình vinh danh Stalin, Kênh Bạch Hải-Baltic vĩ đại và vô dụng mà cũng chính Gorky không tiếc lời ca tụng. Ông đã góp phần không nhỏ vào nạn sùng bái Ðại Nguyên soái. Cả cái chết bí ẩn của ông cũng có ích cho vị lãnh tụ. Nhóm đối thủ chính trị cuối cùng của Stalin bị thanh trừng trong Vụ án Moskva số 3, trong đó có giám đốc mật vụ khét tiếng Yagoda, vì tội giết hại thần tượng văn học Sô-viết; thư ký riêng và hai bác sĩ của Gorky cũng nhân tiện bị xử bắn. Ông yên nghỉ trên Quảng trường Ðỏ, bên bức tường Ðiện Kremlin, cách Lenin không xa, cùng dãy với bà Krupskaya tại nghĩa trang tưởng niệm những nhân vật lỗi lạc nhất của nhà nước Sô-viết.
Trong cáo phó trên tờ báo của Mặt trận Dân chủ Ðông Dương ngày ông qua đời, 18/6/1936, nhà lý luận mác-xít tiên phong Hải Triều gọi Maxim Gorky là “ông thầy tinh thần nhân loại tương lai”. Không nhà văn thế giới nào quyết định diện mạo chính thống của nền văn học Việt Nam như ông, con chim ưng bay lên từ đáy xã hội Nga hoàng để hạ cánh ở chóp bu bộ máy cai trị Nga Sô-viết. Nabokov coi ông là một tác giả không đáng để ý của những tác phẩm hạng hai, nhưng là một hiện tượng ồn ào khá thú vị trong cấu trúc xã hội Nga. Chekhov ưu ái hơn, tin rằng tác phẩm của Gorky rồi sẽ bị lãng quên, nhưng con người Gorky thì ngàn năm sau khó ai không nhớ. Ông quả thật là nhân vật đáng nhớ nhất trong cuốn tiểu thuyết larger than life là chính cuộc đời mình, thấu kính bi tráng cho ánh sáng và bóng tối của một thời đại khốc liệt, mở ra từ Cách mạng tháng Mười. Nếu sự kiện ấy là một tin đồn, xã hội và văn học Việt Nam hôm nay, 105 năm sau, sẽ hoàn toàn khác.
PTH
21/10/2022