Vừa là nhà phê bình văn học vừa là người viết sử, Thụy Khuê đã hoàn tất nhiều công trình công phu: Nhân Văn Giai Phẩm – Vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tự Lực Văn Đoàn – Văn học và Cách Mạng, Vua Gia Long và Người Pháp… Có thể xếp Thụy Khuê vào khuynh hướng duyệt xét lại lịch sử trong mục đích tìm kiếm sự thật, hay ít nhất những gì đã xảy ra trong quá khứ còn có thể thu thập được qua văn bản mà không chịu tác động của tuyên truyền, cùng các định kiến

Lịch sử Truyền giáo và chữ Quốc ngữ là nghiên cứu đồ sộ sau cùng của Thụy Khuê. Chương viết về Trương Vĩnh Ký với sưu khảo dày đặc tài liệu nói lên công sức của bà đang cho cách nhìn khác về một nhân vật được xem là vĩ nhân đất Việt. Trương Vĩnh Ký có xứng đáng không? Câu trả lời của Thụy Khuê đầy nghiêm khắc: Trương Vĩnh Ký xứng đáng nhận Bắc đẩu Bội tinh của xứ Đại Pháp.

Đồng ý hay không, trước nhất phải đọc những tài liệu mà Thụy Khuê tìm thấy.   [Trần Vũ]

Chương 11 – Trương Vĩnh Ký (1837-1898)

Phần VII: Cuộc xâm lăng của Pháp dưới ngòi bút

Trương Vĩnh Ký – Kỳ 2

Thụy Khuê

Cuốn Biên tích Đức thầy Vê giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp

Cuốn sách giải thích tại sao chúng ta phải mang ơn người Pháp là Biên tích Đức thầy Vê Rô giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp của Trương Vĩnh Ký, in năm 1897.

Sách này có hai tên, trên trang bìa, ghi những hàng chữ sau đây:

“Biên tích Đức thầy Vê giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp

P.J.B.Trương Vĩnh Ký phụng thuật

Đức thầy Dépierre Giám mục dạy in ra.

Cuốn nhứt.

Saigon, Claude & Cie, Imprimeri, Editeurs, 1897″

Ở trang trong, ghi tên thứ hai của cuốn sách, như sau:

“Biên Tích Đức Thầy Vêrô Pinho Quận Công phò Nguyễn Ánh là đức Cao Hoàng (Gia Long Thế tổ Cao hoàng đế) phục quốc.

Từ năm Bính Thân 1775 cho đến năm Kĩ vị 1798 Đức Thầy tạ thế

Lại với tới năm Mậu Tuất 1892 cho cùng truyện.

Sau có biên ra những văn tế vua, Đông cung cùng các quan triều điếu tế Đức thầy nữa.

P.J.B.Trương Vĩnh Ký phụng thuật

Đức thầy Dépierre Giám mục dạy in ra.

Saigon

Imprimerie &Librairie Nouvelles

1897

Cái tên thứ hai này: Biên Tích Đức Thầy Vêrô Pinho Quận Công phò tá Nguyễn Ánh là đức Cao Hoàng (Gia Long Thế tổ Cao hoàng đế) phục quốc, đã nói rõ nội dung: viết về việc Đức thầy Vê-rô Pinho Quận công tức Bá Đa Lộc phò tá Nguyễn Ánh phục quốc. Sách này do Giám mục Dépierre sai Trương Vĩnh Ký viết ra. Chỉ có 48 trang. Theo bài Tiểu dẫn của Trương Vĩnh Ký (trang 3-4), sách được làm ra để sửa soạn cho lễ kỷ niệm 100 ngày giỗ Bá Đa Lộc (9-10-1799) và ghi nhớ công ơn của vị Giám mục đối với nước Nam. Trương Vĩnh Ký cho biết: “Truyện này truyện 27 năm kể từ năm Bính Thân 1775 cho tới năm Nhâm Tuất 1802, chia làm 4 hồi như sau nầy:

Đệ nhứt hồi: (xin tóm tắt): Bá Đa Lộc tình nguyện sang giảng đạo ở Annam, trong lúc việc bắt đạo đang gắt gao, và loạn lạc nổi lên, chúa Nguyễn [Phước Thuần] cùng cháu là Nguyễn Ánh bỏ kinh thành Huế, chạy vô Nam Kỳ, Bá Đa Lộc «ra tay phò tá giúp đỡ trong 18 năm, từ 1767 tới 1785“. (trang 4-18).

Đệ nhị hồi II: Bá Đa Lộc đưa Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện (trang 18-27).

Đệ tam hồi III: Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh về cùng với “các sĩ quan, tầu bè súng ống, và 300 quân tình nguyện đi theo”. Các sĩ quan Pháp điều khiển quân đội, xây thành đắp lũy, luyện tập quân lính. Bá Đa Lộc qua đời. (trang 27-43).

Đệ tứ hồi IV: Từ sau khi Bá Đa Lộc qua đời đến năm Nhâm Tuất 1802: Nguyễn Vương nhờ tầu bè, vũ khí của Bá Đa Lộc; các «sĩ quan» Pháp tập luyện binh lính theo lối Tây và điều khiển các trận đánh tới Huế, rồi ra Bắc. Vương lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long (trang 43- 48).

Cuốn sách “Biên tích Đức thầy…” xác định Bá Đa Lộc là người giúp Nguyễn Ánh dựng lại cơ đồ nhà Nguyễn. Chép danh sách tên những «sĩ quan» Pháp đã giúp ông dựng nghiệp. Sách in năm 1897, 12 năm sau cuốn Giáo trình lịch sử An-Nam (1875). Những điểm nêu cao “công trạng của Bá Đa Lộc“, với những con số tầu bè, khí giới và quân lính đem về, đều chép lại hoặc phóng tác theo cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d’Adran (Đức Giám mục Bá Đa Lộc) của Alexis Faure, do nxb Augustin Challamel in ở Paris, năm 1891, không phù hợp với một thực tế nào. Chúng tôi trích lại mấy điểm tiêu biểu dưới đây:

  1. Bá Đa Lộc bỏ tiền ra mua vũ khí cho Nguyễn Ánh:

“[Đức Thầy]lại lấy của riêng cha mẹ cho hồi chưa về Tây tính việc, cũng được 1500 livres mà nhập với của lòng rộng rãi [của] các nhà hàng hải buôn bán ở tại cù lao L’Ile de France, cù lao Bourbon và xứ Pondichéry đã dang tay góp giúp. Đức thầy xuất ra mà mua từ năm 1788 được mấy chiếc tầu, chở súng lớn một trăm vị, súng tay mấy ngàn cây, thuốc đạn cụ túc đem về giúp vua Annam” (trang 27-28). Những dòng này hoàn toàn bịa đặt vì chính Bá Đa Lộc đã viết trong thư gửi cho Létondal, bề trên của ông ở Macao, như sau: “Tôi về với độc một trung hạm (une seule frégate) và lại phải lập tức đi Manille ngay[15]

  1. Danh sách “sĩ quan Tây tình nguyện với Đức thầy” sang giúp vua cai quản quân đội và xây dựng thành trì:

– J.M. Dayot, «Thủy sư cai quản cả đạo thuỷ”, dưới quyền có: Vannier, Chaigneau, Magon de Médine, de l’Isle sellé, Guillon, Guilloux, de Forcant, Desperles, Tardivet, Emmanuel. Malespine.

Xem thêm:   Đứa con lai

– Lebrun vẽ họa đồ thành Gia Định.

– Laurent Barizy coi việc lương thực.

Trương Vĩnh Ký viết: “Lại có 350 lính thủy Tây tình nguyện…Từ đó vua phới phở phấn chí mà lo trừ Tây Sơn đánh lấy lần ra Huế là cựu đế đô nhà Nguyễn… Tháng 2, trong Năm [không rõ năm nào, nhưng theo mạch văn thì chắc là năm 1789] vua dạy ông Ollivier với ông Lebrun coi xây thành Gia Định tại làng Tân Khai, xây thành bát quái 8 cửa, xây vách thành bằng đá ong Biên Hoà. Ông Ollivier lại lập ra một đạo binh để hộ giá, 6000 [lính] ăn mặc, mang gươm, súng, tập theo mão [mẫu] binh Tây. Còn chánh đạo chiến binh [quân chính quy] thì khi ấy được 5 muôn [vạn], ông Lieutenant Colonel de Barisy lo tập theo binh Tây dần dần” (trích các trang 31-32-33).

Khi viết cuốn Vua Gia Long và người Pháp, chúng tôi đã tìm lại hồ sơ, tiểu sử và thư từ của những người lính thủy tình nguyện này thì thấy, ngoài trường hợp Mayot, đã từng là sĩ quan hải quân, những người khác, phần lớn, không được đào tạo gì cả, thậm chí vô học, nên không thể là kỹ sư, kiến trúc sư, xây dựng thành trì, tổ chức và điều khiển quân đội, như Trương Vĩnh Ký viết, mà như trên đã nói, ông chép lại cuốn Đức Giám mục Bá Đa Lộc của Alexis Faure, ra đời sáu năm trước cuốn Biên tích Đức thầy Vê Rô giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp.

  1. Sau khi qua đời, Đức Thầy tiếp tục giúp Nguyễn Ánh chinh phục phần đất còn lại:

“Từ Đức Thầy tạ trần [9-9-1798?] rồi về sau cho đến năm Nhâm Tuất 1802, Vua nhờ tầu bè binh khí binh lính tập rèn theo Tây các quan Tây còn lại mà đánh lấy tới Huế ra Nghệ An Thanh Hoá, tức vị hoàng đế, lấy hiệu Gia Long năm đầu, rồi lần ra lấy đất Bắc mà cai trị tự Nam chí Bắc(trang 43).

Những dòng này cũng hoàn toàn tưởng tượng, nếu ta xem những trận chiến giữa Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn được mô tả trong Đại Nam thực lục.

Tóm lại, có thể coi cuốn Biên tích Đức thầy Vê Rô giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp của Trương Vĩnh Ký là đầu mối việc trá mạo lịch sử trong sách tiếng Việt: viết theo lệnh của Giám mục Dépierre, Trương Vĩnh Ký chép lại những bịa đặt của Alexis Faure trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, évêque d’Adran (Đức Giám mục Bá Đa Lộc), về những chuyện: Đa Lộc bỏ tiền mua thuyền tầu súng đạn đem về giúp Nguyễn Ánh, và sĩ quan Pháp xây thành Gia Định, thiết lập quân đội hai ngành thủy bộ cho nhà vua. Sau khi Giám mục qua đời, Nguyễn Ánh vẫn «nhờ ơn» đức Giám mục (nhờ tầu bè, khí giới của Pháp và binh lính được tập luyện theo lối Tây) nên mới lấy được Huế và đánh ra Bắc!

Những dòng này sẽ ngự trị trên sách lịch sử Pháp, Việt, trong nhiều thập kỷ.

Bộ sách Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình Lịch sử An nam)

Truyện Bá Đa Lộc trong cuốn Biên tích Đức thầy Vê giúp đức Cao Hoàng phục nghiệp chỉ là truyện nhỏ. Vấn đề lớn hơn, bao trùm cả triều đại nhà Nguyễn, là việc nước Pháp xâm lăng, được dựng lại trong bộ sử Cours d’Histoire Annamite (Giáo trình Lịch sử Annam) của Trương Vĩnh Ký, để dạy học trò Nam kỳ, từ năm 1875, thực ra là để gửi đến mọi tầng lớp độc giả Pháp, Việt.

Bộ sử này có tên đầy đủ là Cours d’Histoire Annamite, à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine (Giáo trình Lịch sử An-Nam, để dùng trong các trường học ở Nam Kỳ) của P.J.B.Trương Vĩnh Ký, được viết trong bối cảnh miền Nam đã rơi vào tay Pháp, và ông vừa được chính phủ thuộc địa trao cho nhiệm vụ giáo dục học trò Nam kỳ. Tác phẩm do Imprimerie du Gouvernement (Nhà in của Chính phủ) xuất bản.

Sách chia làm hai tập:

Quyển 1, từ năm 2874, trước Công nguyên, đến năm 1428 sau Công nguyên, tức là từ thời Hồng Bàng đến khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, lập ra nhà hậu Lê (184 trang), in năm 1875, tại Sài Gòn.

Quyển 2, từ năm 1428 đến năm 1875, tức là từ đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến cuối đời Tự Đức, Pháp đã chiếm xong Nam Kỳ. (278 trang), bìa ngoài đề in 1879. Bìa trong đề: Saigon, 1877.

Tổng cộng hai tập 462 trang, từ thời Hồng Bàng đến thời Tự Đức.

Phần viết từ thời Hồng Bàng đến hết nhà Lê (từ năm 2878 trước Công nguyên đến năm 1497 sau Công nguyên) soạn theo chính sử: Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử ký toàn thư… Tóm lược những ý chính và đưa những huyền thoại được công chúng ưa chuộng như truyện Mỵ Châu Trọng Thủy, truyện Huyền Trân công chúa… không có gì đáng nói. Vì người Việt có thể đọc thẳng Đại Việt sử ký toàn thư, và người Pháp thường không chú ý đến lịch sử Việt Nam (từ thời cổ đại trải qua các triều Lý, Trần, Lê) quá phức tạp đối với họ, họ không thể phân biệt những tên Việt xuất hiện trong sử sách «Annam».

Phần quan trọng trong bộ sử của Trương Vĩnh Ký, đối với người Pháp là giai đoạn họ có mặt ở nước ta, bởi vì họ ở trong, và họ sẽ trở thành vai chính, thúc đẩy sự thay đổi toàn diện của đất nước này. Đó là phần viết về nhà Nguyễn, trong quyển 2, kể từ trang 112, đến trang cuối 278.

Phần này, có nhiều điểm cần phải xem lại, có nhiều vấn đề vượt quá giới hạn của một sử gia: Trương Vĩnh Ký «kể công» và «định tội» triều Nguyễn, tố cáo mà không chứng minh những «tội ác» của Gia Long, nhất là Minh Mạng «tham tàn bạo ngược», tàn sát đạo Chúa, rồi Tự Đức nối gót, đưa dân tộc đến tình trạng suy đồi, khiến người Pháp phải can thiệp để «dìu dắt» dân ta khỏi cảnh lầm than.

Xem thêm:   Điếu đóm xưa nay

Ảnh hưởng những “trang sử” này ra sao? Maybon đã dùng cuốn sách này làm mẫu về giai đoạn Pháp thuộc, trong cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (1920) Và Jean Bouchot, đã hết sức ca tụng bộ sách lịch sử này, trong cuốn Un savant et un patriote cochinchinois Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898) (1927) là điều dễ hiểu.

Nhưng sự tôn vinh của người Việt, thì không thể hiểu được.

– Học giả Nguyễn Văn Tố, năm 1937, một trong những người đầu tiên ca tụng cuốn sách này trong bài viết tiếng Pháp tựa đề Petrus Ký (1837-1898)[16], nội dung tôn vinh toàn bộ sự nghiệp văn học của Trương Vĩnh Ký, và có một phần dành cho bộ sử Cours d’Histoire Annamite. Vị học giả này chỉ chú ý đến phần viết từ đời Hồng Bàng đến nhà Lê (vô tình hay cố ý lờ đi phần viết về nhà Nguyễn) để xác nhận rằng “Đấy là lao động khoa học trung thực và kiên trì Petrus Ký đã bắt đầu từ 1863″, và đã “dấn thân vào con đường khó nhọc của tri thức uyên bác, chẳng hề đo tính thời gian của mình, suốt đời nhọc nhằn chỉ duy nhất chăm lo tìm cho được sự chuẩn xác, ngày nay [ông] được vinh danh một cách xứng đáng là người sáng lập nền nghiên cứu lịch sử và ngữ văn học An Nam“.

– Nguyễn Văn Trấn, một khuôn mặt trí thức nổi tiếng trong Nam, được mệnh danh là «ông già chợ Đệm», năm 1992, viết cuốn Trương Vĩnh Ký (con người và sự thật)[17] để minh oan cho Trương Vĩnh Ký, đặc biệt chiếu ống kính vào những đoạn Trương Vĩnh Ký kết tội vua Minh Mạng và nhà Nguyễn, để nói lên «ưu điểm» của cuốn sách này.

Tựu trung, phần đông các tác giả Việt Nam, trước khi «nhận định» một việc gì liên quan đến lịch sử cận đại, thường tìm ra cho được ít nhất một cái ô dù vững chắc, tức là một tác giả Pháp đã nói như vậy, ta chỉ việc nghe theo. Trong trường hợp Trương Vĩnh Ký, cái ô dù mà các nhà biên khảo Việt đưa ra là những lời vàng ngọc của Ernest Renan (1823-1892), triết gia, nhà phê bình, nhà văn, Hàn Lâm viện sĩ… một trong những trí thức lớn của Pháp cuối thế kỷ XIX.

Nguyễn Văn Trấn là trường hợp điển hình: Trước hết, ông giới thiệu với độc giả Việt Nam sự nghiệp lẫy lừng của Ernest Renan (chép lại từ điển Larousse), rồi ông đưa ra những lời khen của Ernest Renan như một sự bảo lãnh về giá trị của bộ sách Lịch sử nước An nam của Trương Vĩnh Ký, bằng những lời sau đây:

“Trong báo cáo thường niên, đọc ngày 10-06-1880 ở hội Á Châu, E. Renan đã khen như vầy về người bạn An nam của mình, về quyển sách học Lịch sử nước An nam:

“Ông Trương Vĩnh Ký trình bày với chúng ta một cách sáng sủa những tư tưởng mà người An nam đã từ trong lịch sử của họ. Người ta ngạc nhiên thấy trong quyển sách nhỏ của ông một sự hiểu biết rõ ràng, một sự vô tư, không có một chút nào tánh chất Á Đông. Nhiều dân tộc châu Âu không có cho các trường sơ học của họ một quyển sử yếu hay bằng của ông Trương Vĩnh Ký[18]

Và sau cùng Nguyễn Văn Trấn mới nói lên những lời ca tụng cuốn Cours d’histoire annamite của riêng mình:

“Sử gia Trương Vĩnh Ký viết trong sách dạy về Sử An nam của mình (Cours d’histoire annamite như vầy:

“Bây giờ dưới mắt chúng ta có một cảnh tượng không làm chúng ta an lòng về những việc mà Gia Long và những người kế vị, những người chủ mới của Vương quốc đã làm.

Sự ương ngạnh và mù quáng của họ đã làm mất xứ Nam kỳ, sự cai trị tồi tệ của họ đã làm cho Bắc kỳ mất lòng đối với h[19]. Riêng đối với Nam Kỳ thì những tai nạn triền miên, sự khủng hoảng mà người dân phải chiụ đựng, sự bạo ngược và tham tàn của quan lại các cấp đã quá rõ, vậy nên nói lại là thừa” [20]

Sau khi trích dẫn dài rộng những dòng Trương Vĩnh Ký «kể tội» nhà Nguyễn, Nguyễn Văn Trấn còn thêm vào câu: Đọc thấy có thương không, hỡi người độc giả chăm chỉ? (trang 50)

sau cùng, ông kết luận:

“Vừa rồi, sở dĩ để nghe Trương Vĩnh Ký nói nhiều “khảo sát” về việc tăm tối trong triều là để ngẫm nghĩ về khái niệm “tổ quốc” trong lòng mọi người dân thường (kể cả Petrus Ký) đã bị xúc phạm, đã bị xuyên tạc đến bực nào.” (trang 52)

Điều mà Nguyễn Văn Trấn khâm phục ở đây chính là những dòng tố cáo nhà Nguyễn:

Trương Vĩnh Ký đã vẽ nên một nhà nước Việt Nam thối tha, rữa nát, dưới sự cai trị của nhà Nguyễn, đặc biệt với ông vua độc tài tàn ác Minh Mạng, Trương Vĩnh Ký mong nước Pháp lật đổ chế độ nhà Nguyễn [dưới thời Tự Đức] để «cứu giáo dân» và «giáo hóa quần chúng» theo kịp nền văn minh Tây phương.

Ông đưa ra ba vấn đề then chốt:

  1. Ca tụng công lao của Bá Đa Lộc đã bỏ tiền mua thuyền bè vũ khí giúp Nguyễn Ánh, mộ các “sĩ quan” Pháp đến giúp Nguyễn Ánh «thành lập quân đội», «xây dựng thành đài», đánh đuổi Tây Sơn, dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn.
  2. Quy tội làm mất nước cho nhà Nguyễn, bằng cách xuyên tạc Minh Mạng: soán ngôi, vô luân, tàn ác, giết đạo, khiến nước Pháp phải «can thiệp» vào nước Nam để cứu dân, cứu đạo.
  3. Chào đón sự đô hộ của Pháp bằng cách gọi tên nước là An Nam, và ca tụng sự bảo hộ của nước Pháp.
Xem thêm:   Yoshinobu Yamamoto - Người khổng lồ nhỏ bé

Tại sao có sự căm thù nhà Nguyễn trong Giáo trình Lịch sử An-Nam?

Văn bản xuyên tạc lịch sử Việt Nam sớm nhất mà chúng tôi tìm được là của những người Pháp đã đến nước ta, trong thế kỷ XVIII, chủ yếu là cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc hà và Nam hà của ông de la Bissachère)[21] trong đó có Bài Tựa (Introduction) của viên sỹ quan kỵ binh Félix Renouard de Sainte-Croix (1767-1840) [22]

Cuốn Ký sự Bissachère, được de Sainte-Croix đem về Âu châu, in lần đầu năm 1810. Như vậy, sự bôi nhọ Quang Trung và Gia Long của Bissachère đã được truyền đi từ năm 1810. Năm 1817, Bissachère trở thành Giám đốc Hội Thừa Sai Paris. [23]

Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820. Sự thù ghét Việt Nam mà de la Bissachère đã sống trốn tránh nhiều năm vì việc cấm đạo, được phản ảnh gay gắt trong Ký sự Bissachère, đã ảnh hưởng đến cách quản lý Hội Thừa Sai Paris của ông, và giải thích sự xuất hiện một tầng lớp giáo sĩ mới, nổi lên từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức, như Marchand (Cố Du), Giám mục Pellerin, linh mục Huc, linh mục Legrand de la Liraye, Giám mục Puginier, linh mục Louis Eugène Louvet… không nề hà bất cứ thủ đoạn nào có thể «đánh đổ» Nhà Nguyễn, để xây dựng Đế quốc Thực dân Pháp là Đông Dương.

Những thừa sai này, hoặc hướng dẫn tinh thần (giặc) Lê Văn Khôi, trên hiện trường như linh mục Marchand, dưới thời Minh Mạng; hoặc vạch ra chiến lược đánh chiếm thuộc địa để kiếm ăn, như các linh mục Huc, Legrand de la Liraye, Pellegrin, Puginier; hoặc bôi nhọ triều đình, đổ tội cho các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, giết hại giáo dân như Louis-Eugène Louvet, để xác định chính nghĩa xâm lăng. Và các giám mục hay giáo sĩ này, thường là những thám tử đắc lực của chính quyền thực dân, trực tiếp giúp đỡ các tổ chức nổi loạn trong nước, hỗ trợ cho việc đánh chiếm thuộc địa.[24] Những việc này sẽ được khảo sát sâu hơn trong chương viết về Tự Đức.

Được đào tạo trong nhà Dòng từ nhỏ, Trương Vĩnh Ký không xa lạ gì với những lập luận của các thừa sai. Hẳn là ông đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của linh mục de la Bissachère: cùng một phương pháp, cùng một mục đích, Trương Vĩnh Ký trở thành cây bút người Việt đầu tiên viết sử bôi nhọ nhà Nguyễn, ngay sau khi Pháp chiếm xong miền Lục tỉnh Nam kỳ.

Cho nên, cuốn sách giáo khoa này của ông được các nhà nghiên cứu Pháp như Maybon, Cadière, đánh giá cao và họ nói rõ: đó là cuốn sách đầu tiên, mà người Pháp được đọc về lịch sử Việt Nam.

Lời khen của Ernest Renand đọc tại hội Á Châu ngày 10-06-1880, trích dẫn ở trên, hẳn không phải là khen phần viết từ đời Hồng Bàng đến nhà Lê, bởi lịch sử thăng trầm của dân tộc ta với những giai đoạn hiển vinh: ba lần đuổi quân Mông Cổ, đánh Tống, bình Chiêm, không thể hấp dẫn người Pháp, vì họ không thể nhớ nổi tên một vị anh hùng, đầy rẫy trong sử Việt. Việc ta đánh đuổi ba lần quân Mông Cổ, trong một bộ sử thế giới, được họ ghi là ta đã thần phục Hốt Tất Liệt!

Cho nên ở đây phải hiểu: họ chỉ khen và hâm mộ những đoạn Trương Vĩnh Ký viết về thời kỳ cận đại, tức là thời kỳ có họ ở trong và Trương Vĩnh Ký đã buộc tội nhà Nguyễn làm mất nước và nêu cao công trạng của họ: đến để “khai hóa” và đưa dân tộc này ra khỏi cảnh đọa đày!

Công lớn của Trương Vĩnh Ký là đã lột áo «ngoại xâm» để đắp lên mình tập đoàn thực dân tấm áo «ân nhân» của nước Việt.

(còn tiếp)

[15] Trích thư Bá Đa Lộc viết cho Létondal, Quản thủ Tu viện Macao ngày 17-8-1789, in trong sách Lịch sử truyền giáo của Launay, tập III, trang 209. Xem toàn bộ vụ việc Bá Đa Lộc tay không trở về Việt Nam, được Maybon trá mạo thành một danh sách thuyền bè, súng ống… trong cuốn Vua Gia Long và người Pháp của Thụy Khuê, chương 14, tựa đề: Maybon và cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, trang 337-366.

[16] Bài này in trên tập san Bulletin de la Société de l’enseignement mutuel du Tonkin, tome XVII, 1937 (trang 25-67), được Nguyên Ngọc dịch sang tiếng Việt là Đôi nét về danh nhân văn hóa Trương Vĩnh Ký (1837-1898), in lại trên Website của Hội Ái hữu cựu học sinh trường Petrus Trương Vĩnh Ký ở Úc châu.

[17] Sách này do Ban Khoa Học và hội Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, in năm 1992.

[18] Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký (con người và sự thật) Ban Khoa Học Xã Hội Thành Ủy TpHCM, 1993, trang 44. Bouchot trang 31, note (1).

[19] Ám chỉ các cuộc nổi loạn nhân danh nhà [do các thừa sai thúc đẩy và trợ giúp].

[20] Nguyễn Văn Trấn, trang 48-49.

[21] Sách này do nhà Champion, Paris, in lại năm 1920, gọi tắt là Ký sự Bissachère (1764-1830).

[22] Ký sự Bissachère (1764-1830) được in ở Anh từ năm 1810. Năm 1920, nxb Champion, Paris, in lại, gọi là Ký sự Bissachère, trong có Bài Tựa (Introduction) của viên sỹ quan kỵ binh Félix Renouard de Sainte-Croix (1767-1840). Chúng tôi đã trình bày nội dung và bài Tựa sách này trong cuốn Vua Gia Long và người Pháp (Công ty Saigon-books và Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2017), trong chương 9 tựa đề: Ký sự Bissachère, thủy tổ sự bóp méo lịch sử chương 10: Bài Tựa (Introduction) của Sainte-Croix (trang 213-243).

[23] Về Bissachère và de Sainte-Croix, xem thêm Vua Gia Long và người Pháp của Thụy Khuê, trang 215- 216.

[24] Xem lại Chương 6: Hội thừa sai Paris.