Ngày 10 tháng 4-1972, tình hình vô cùng nguy ngập trên căn cứ Charlie. Trung đoàn 52 là Trung đoàn Tây Tiến trong thơ Quang Dũng tràn ngập cao điểm C1 của Trung úy Thinh. Đại đội 111 phải rút lên C2 nơi đặt  Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn 11 Dù. C1 ở giữa C3 (Đại đội 113 của Đại úy Hùng  mập) và C2 (Đại đội 112 của Đại úy Hùng Móm + Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho + Đại đội Chỉ huy 110 của Đại úy Nho), có nghĩa là Tiểu đoàn 11 Dù đã bị xé đôi. Sáng 11 tháng 4, Đại đội 112 cố gắng tái chiếm C1 nhưng không thành. Ngày 12, Trung tá Bảo tử trận, ngày 13 Trung úy Thinh, Trung úy Khánh, Chuẩn úy Ba, Trung sĩ Lung tử trận… Lễ thiêu sinh bắt đầu.

Trong phần trước của hồi ký, Trung úy Nguyễn Văn Lập đã giận dữ quở trách Trung tướng Ngô Du tư lệnh Quân đoàn II đã không cho triệt thoái, khiến Tiểu đoàn 11 Dù liên tục hứng pháo vô ích vì không thể thực hiện nhiệm vụ vừa kiểm soát quốc lộ 14 vừa quan sát gọi phi pháo hủy diệt quân xa Bắc Việt trên đường mòn Hồ Chí Minh ven biên giới sát ngay cạnh; cũng không thể ngăn Sư đoàn 10 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam uy hiếp Tân Cảnh (Dakto).

Yếu kém của Quân lực VNCH không ở dàn sĩ quan trung cấp mà ở hàng tướng lĩnh. Những tướng tài như Đỗ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Phan Trọng Chinh… đếm trên đầu ngón tay. Số đông còn lại là các vị tướng xuất thân quân đội Pháp ít tác chiến chỉ đóng đồn, chưa đánh trận lớn, rồi tự phong chức cho nhau sau các cuộc đảo chánh. Đại tướng Trần Thiện Khiêm đánh trận nào mà lên Đại tướng? Trung tướng Lê Nguyên Khang đánh những trận nào trước khi làm tư lệnh TQLC? Các Trung tướng Trần Văn Đôn, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan chưa nhiều trận mạc. Vì sao Đại tướng Cao Văn Viên ghi danh theo học Văn Khoa giữa lúc chiến tranh sôi sục? Ở cương vị Tổng Tham mưu trưởng Lục quân, ông dư thời gian vì ít công việc hay sao? Hay mộng cử nhân văn chương lấn át bận tâm chiến trường? Chương trình huấn luyện của các trường võ khoa Nam Định, Huế, Đà Lạt ban đầu có 9 tháng, tập trung đào tạo Trung đội trưởng nhưng không dạy về học thuyết chiến tranh hay thuật hành binh và đặc biệt không phân tích các trận đánh trong chiến tranh Việt-Pháp tuy cùng một kẻ thù, cùng dàn tướng lĩnh Cộng sản đó đang tấn công Miền Nam với cùng một phương pháp, cùng chiến thuật, chiến lược. Trung tướng Ngô Du, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng Cao Văn Viên thụ huấn chương trình 9 tháng này. Các tướng lĩnh Cộng sản ngược lại rất dầy dạn chiến trận sau 9 năm đánh nhau với Pháp.   

Charlie, là sai lầm của suy nghĩ tin có thể ngăn chính quy Bắc-Việt bằng vài tiểu đoàn Dù trên vài mỏm núi.

[Trần Vũ]

Kỳ cuối

Nguyễn Văn Lập

Ðến gần sáng thì ra đến bãi bốc giống như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Ðịnh. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Ðại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề-lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút thì đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.

Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bãi bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chỗ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa sà sà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay đúng bãi đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao bồi Viễn Tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất dễ thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô “hàng sống chống chết!”, “hàng sống chống chết!” vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang bị nguyên một trung đoàn Việt cộng phục kích, trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẽ bốc quân tại đây nên cho lệnh trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giữa tất nhiên ta sẽ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẵn sẽ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy dù cũng bung ra chống lại mãnh liệt.

Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp-lá-cà, chỗ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xi-nê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa sà xuống thì Việt cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn còn lại, Việt cộng ngã rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng là mấy cây AK đã chĩa vô đầu Vinh, có lẽ vì cảm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống.

Xem thêm:   "Đức hiện nay có gì lạ không"?

Nhờ lòng quả cảm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Đại úy Ðoàn Phương Hải trưởng Ban 3 (hiện ở San Jose) thì bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.

Ðạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và một slick trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích nên không đem theo phòng không cho nên trực thăng của Mỹ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng những tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng vẳng, tiếng động cơ trực thăng vẫn còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nhìn lên khá rõ nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi, may ra trực thăng thấy được rõ đồ rằn ri so với đồ lục bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:

– Dạt ra bên, trực thăng bắn!

Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cỡ vài mét không còn nhớ rõ phía bên nào, tôi thấy mình văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng Colt 45 cầm trên tay văng đâu mất, cái la bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp lính Nhảy dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi thì tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng hét kêu đầu hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh em:

– Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng.

Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Võ Ðịnh cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ (về sau đúng như vậy vì bọn chúng đang điều quân đánh căn cứ Võ Ðịnh). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch rồi vòng lại hướng đông nam ra Diên Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ còn có 3 cây M16, mỗi cây chỉ có một băng đạn, không biết lúc đụng trận nữa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi gì đòi theo tôi đi đề-lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao.

Ði gần nữa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lả người, nửa tháng nay không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bỗng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán lính Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều thì gặp thêm một toán nữa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt gì được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh ra riêng và nói:

– Lính của anh, anh dễ chỉ huy hơn, còn tôi thì dẫn đường ra thôi.

Chuẩn úy Linh trả lời:

– Trung úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi đâu chúng tôi theo lệnh Trung úy.

Tôi trở lại nói với anh em:

– Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông thì bỏ chạy, nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Ðức Mẹ sẽ che chở chúng ta. Mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu, ba Chuẩn úy chia ra xen kẽ, còn lại không có vũ khí thì đi sau. Tôi cũng dặn dò kỹ hướng ra quốc lộ 14, trên đường sẽ gặp những gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc vì đụng trận thì theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận người anh, lỡ tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm, trễ một ngày là có thể chết vì đói.

Xem thêm:   Charlie ngày ấy & Charlie bây giờ (kỳ 3)

Tối đó, tôi dặn Chuẩn úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đỡ mệt hơn. Ðến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đã bỏ hoang, không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nữa. Một người lính bỗng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cỡ ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc thì lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bãi hay pháo binh bắn ghép bãi lỡ trúng thì xui tận mạng.

Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bãi phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Ðúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều thì dừng quân nghỉ đêm. Ðôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, còn trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bậy thì đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Ðêm đó nhìn lên bản đồ, tôi còn cách sông PoKo độ 2 cây số nữa, qua sông này được thì chiều tối đến xã Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng  đuối sức hết thì làm sao mà qua đây.

Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PoKo đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiếc trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẫy vẫy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghĩ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm những người còn kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Ðịa Phương quân biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ.

Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẫy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghĩa quân ở đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc Hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên đường đi. Ðây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nữa, chẳng có gì ăn trên đường qua rẫy vì rẫy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.

Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn ngán cái địa ngục nào nữa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lý của kẻ lì cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến xã Diên Bình thì dừng lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì đạp mìn Địa Phương quân thì lãng xẹt.

Tôi vừa đi một vòng kiểm soát lại mọi người thì Chuẩn úy Linh tiến lại nói có hai thằng mò vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình vào. Tôi nói tài thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Ðại úy Tiểu đoàn Trưởng Ðịa Phương quân và trình bày lý do, viên Ðại úy nói hồi chiều tôi đã được biết trước anh em sẽ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 Dù biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Ðại úy săn sóc giùm, viên Ðại úy cho người dẫn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo.

Xem thêm:   Đứa con lai

Những vết thương được các soeur rửa ráy hết sức cẩn thận, dòi con nào con nấy to bằng đầu đũa bò ra từ trong xương tay mà anh em không cảm thấy đau đớn nhiều, có những nỗi đau còn lớn hơn trong lòng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này vì nói ra chúng tôi sẽ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chỗ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc gì đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Ðại úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chỗ nằm.

Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên Bình nhìn về dãy Trường Sơn âm u phía tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc nghìn thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chữ Tự Do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp bộp trên không, rồi tan vỡ từ từ thành hình một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Binh nhì Nhỏ, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết…

Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Ðình Bảo cùng ba trăm đồng đội, và tiểu đoàn về được tới Võ Ðịnh trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một đại đội. Sau Hiệp định Paris, Ðại úy Hùng mập, Ðại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đòi giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho vì nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Đệ tử của tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác thì nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngũ sau trận này, không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng theo, trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hiểm. Ðại úy Hùng móm và Chuẩn úy Trưng đề-lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Ðại úy Hùng móm đã nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, chỉ cách ngôi nhà cũ của mình có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu tá Mễ chạy cho một cái Nhành dương liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu II sau trận này.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, Trận Charlie lãnh cỡ 10,000 quả đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đã tiêu diệt được ít nhất cũng một trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320 “quả đấm thép”, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ sung quân số rồi ra tái chiếm Quảng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề-lô pháo binh đã bắn cháy 26 xe tăng địch gần bờ sông Mỹ Chánh, có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công như thế trong không đầy 12 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đã dùng hỏa tiễn TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Trinh Sát Dù của Thiếu tá Nguyễn Văn Dũng, mà tôi đã thoát chết được khi đi đề-lô cho đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị cuối tháng 6 năm 1972./.

NVL

Sơ đồ chỉ huy

Tiểu đoàn 11 Nhảy dù

Tiểu đoàn trưởng: Trung tá Nguyễn Đình Bảo

Tiểu đoàn phó: Thiếu tá Lê Văn Mễ

Ban 3 Hành quân: Đại úy Đoàn Phương Hải 

Ban 1 Quân số, Ban 2 Quân báo, Ban 4 Tiếp liệu: Không rõ.

Quân y: Đại úy y sĩ Tô Phạm Liệu

Sĩ quan Điều không: Đại úy Đoàn Phương Hải đảm trách.

Đại đội 110 (Đại đội Chỉ huy): Đại úy Nho

Đại đội 111: Trung úy Thinh

Đại đội 112: Đại úy Hùng “móm”

Đại đội 113: Đại úy Hùng “mập”

Đại đội 114: Trung úy Phan Cảnh Cho

Liên toán Quan sát Pháo binh: Trung úy Lưu Văn Đúng

Liên lạc Pháo binh Đại đội Chỉ huy 110: Trung úy Đúng

Tiền sát viên Pháo binh Đại đội 111: Trung úy Khánh

Tiền sát viên Pháo binh Đại đội 112: Chuẩn úy Sơn

Tiền sát viên Pháo binh Đại đội 113: Chuẩn Úy Trưng

Tiền sát viên Pháo binh Đại đội 114: Trung úy Nguyễn Văn Lập