Tôi khóc những chân trời không có đường bay

Tôi khóc những người bay không có chân trời

Hai câu thơ trên là của Trần Dần trong Trần Dần-Thơ do nhà Phương Nam ở trong nước xuất bản cách đây mấy năm. Trước hết, xin bày tỏ một điều chân thật: D.Quỳ tôi rất yêu thích hai câu thơ vừa trích dẫn trên. Và yêu quý con người thơ Trần Dần, chẳng phải chỉ bây giờ mà cả mấy chục năm về trước. Cuộc đời ông lắm oan khốc, suốt thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm cho tới mãi về sau. Ông từng cắt mạch máu tự tử vì tuyệt vọng. Tôi ở phố Sinh Từ / Hai người / Một gian nhà chật / Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?… Tôi bước đi / Không thấy phố, không thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa / Trên màu cờ đỏ… Những câu thơ viết về Hà Nội của ông từng bị Đảng căm hận. Và trong nhiều năm, Trần Dần đã phải trả giá và bị vây khổn, hành hạ…

Báo chí trong nước ngày nào đã viết những dòng sau đây về nhân cách, năng lực sáng tạo và sự đóng góp của Trần Dần: “Mặc dù bị oan khiên hoạn nạn trong vụ Nhân văn – Giai phẩm, nhiều chục năm phải sống trong im lặng và bóng tối, Trần Dần với thiên chức và bản lĩnh của một nghệ sĩ chân chính vẫn không ngừng sáng tạo và đã để lại một di cảo đồ sộ có giá trị cách tân đối với văn học Việt Nam. Mười năm sau khi ông qua đời, mới chỉ có một phần nhỏ của di cảo đó được xuất bản: Bài thơ Việt Bắc, Cổng tỉnh, Mùa sạch…”

Đày đọa nhà thơ trong bóng tối của cô đơn nghèo khổ cả hàng chục năm, nhà nước Cộng Sản những tưởng đã dập tắt được một tiếng nói, một ngọn lửa. Nhưng không. trong suốt ba mươi năm ấy, nhà thơ vẫn lầm lũi làm việc trong bóng tối theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tập Trần Dần – Thơ, được chắt lọc từ di cảo với nhiều tâm huyết và công sức, là một cố gắng của gia đình nhà thơ, của những người biên soạn. Có thể nói ‘Trần Dần – Thơ’ là kết tinh huyết lệ của một đời thơ. Ở đây, ta đọc được tiếng khóc đau đớn của con thiên nga trong cõi đọa đày, vây hãm: Tôi khóc những chân trời không có đường bay / Tôi khóc những người bay không có chân trời…

Nhà thơ Trần Dần 

Vậy mà năm 2006, nhằm tô son điểm phấn bộ mặt của chế độ, nhà nước CS đã cho diễn trò vinh danh Trần Dần, cùng các bạn ông trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm là Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán. Trong khi đó, ‘Trần Dần- Thơ’ không được phổ biến rộng rãi trong nước. Nó vừa ra đời chưa kịp bay lên thì đã bị chặt cụt mất đôi cánh. Thiết tưởng, chữ nghĩa như thế phải được quý trọng và gửi đến mọi người. Vậy mà, ‘Trần Dần – Thơ” đã bị cấm, không được bày bán ở Ngày Hội Thơ tại Văn Miếu, Hà Nội tổ chức cách đây hai năm. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên ngày ấy đã thuật lại khá rõ ràng sự việc: “Trong dòng người chen vai thích cánh vào Văn Miếu, nhiều người đã được biết Trần Dần – Thơ ra đời, đã hay tin hôm nay tập thơ được bày bán tại quầy của Nhã Nam ở cả sân Thái Miếu và sân Thái Học. Họ đến quầy sách, họ nhìn vào các tập sách bày ra: Trần Dần – Thơ không thấy có. Họ hỏi các nhân viên bán hàng, đáp lại là sự im lặng rụt rè, và một câu trả lời nhỏ và ngắn: không được bày bán.”

Xem thêm:   Lá Thư Từ Kinh Xáng 1 (kỳ 8)

Trả lời câu hỏi của phóng viên, Phạm Xuân Nguyên nói: ‘’Việc thế nào thì tôi cũng chỉ cập nhật tức thì những thông tin như đã nêu trên và nói lại với các phóng viên. Còn tại sao ư? Tại vì nỗi sợ của ai đó. Sợ Trần Dần-Thơ xuất hiện trong ngày thơ sẽ hút sự chú ý, đặc biệt chú ý, của mọi người vào ông và thơ ông. Sợ những con chữ Trần Dần sẽ khuấy động, khuấy đảo tâm cảm mỗi người đọc và gây ra những phản ứng thơ mạnh mẽ có thể khiến bàng hoàng trước một khối năng lượng sáng tạo cực mạnh, cực lớn từ gần nửa thế kỷ trước soi chiếu và phóng nổ vào hôm nay. Nói chung lại là sợ Chữ, sợ Thơ của một Nhà Thơ.”

Những chân trời không có đường bay… và…những người bay không có chân trời” là như thế. Nghĩa là nhà cầm quyền Cộng Sản trong mấy chục năm qua đã bít kín những chân trời, khiến những cánh chim không bay lên được. Tệ hơn nữa, họ đã cắt cụt cánh những con chim trời, như Tưởng Năng Tiến đã có lần viết. Riêng Trần Dần nhờ khát vọng sáng tạo và sự làm việc can đảm, bền bỉ đã dựng lên được một công trình đồ sộ dù bị vây khổn, đọa đày. Trong khi bao người khác chẳng viết được gì đáng kể. Trường hợp Huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh, …chẳng hạn. Cái chân trời bưng bít dưới chế độ Cộng Sản làm cho nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ bị ngộp thở. Văn Cao kể từ sau Sông Lô và Làng Tôi, coi như đã chết. Ông nhận chìm nỗi sầu khổ, cô đơn trong men rượu. Chế Lan Viên suốt bao nhiêu năm tháng ăn bánh vẽ của Cộng Sản mà vẫn đóng kịch giả vờ rất hoan hỷ để rồi cuối đời viết Di Cảo chỉ là những mảnh vụn suy nghĩ chứ chưa phải là tác phẩm. Trường hợp Văn Cao và Chế Lan Viên, thủ phạm giết chết mầm sáng tạo của nghệ sĩ là do ở chế độ và những   giới hạn, áp bức đè nặng lên số phận người cầm bút. Phong trào nhân văn giai phẩm chính là một nỗ lực vùng thoát ra khỏi những xiềng xích trói buộc để rồi bị trừng trị thảm khốc. Nguyễn Khải trước khi ‘về cõï’, nhìn lại những sáng tác của mình cũng chỉ thấy toàn giả tạo, hời hợt, nông cạn tuy ông nhận được hết giải thưởng này đến giải thưởng khác.  Trường hợp nhà danh họa Dương Bích Liên cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. “Nghiêm – Liên – Sáng – Phái” là những danh họa Việt Nam mà trong 4 số phận đó, Dương Bích Liên có lẽ là con người u uất lặng lẽ sống và chết buồn thảm nhất -tài liệu trên net gần đây ghi rằng cuối đời ông nhịn đói cho tới chết. Một danh hoạ được xưng tụng mà sinh thời chưa một lần triển lãm tác phẩm của mình, một danh hoạ vẽ cả đời mà cuối cùng muốn tự hủy hết tác phẩm của đời mình.

Xem thêm:   Những hòn đá nhân sinh

Họa sĩ Trịnh Cung, trong bài tham luận ngày 31 tháng 1. 2010 đọc tại hội trường báo Người Việt ở Cali trong buổi triển lãm Hội Ngộ nhân Huỳnh Hữu Ủy ra sách hội họa. Trịnh Cung cũng đã trình bày về hậu quả của chế độ đè nén và cấm kỵ đối với người sáng tác. Dưới chế độ cai trị ở miền Bắc sau 1954, ông nói, nhà cầm quyền “coi các trào lưu mỹ thuật phương Tây là nguy hại, cần quét sạch ra khỏi xã hội và cấm triệt để.” Kết quả là hội họa miền Bắc “mất hết tư duy độc lập sáng tạo.” Chỉ có mỗi đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa là được áp dụng, để đẻ ra có mỗi hai loại tranh: “Tranh cổ động tuyên truyền chống đế quốc và tranh ca ngợi Đảng.” Trong bối cảnh đó, các họa sĩ của trường Mỹ thuật Đông Dương cũ, nếu không ra ngoại quốc hay di cư vào Nam, đã “trở thành những cái bóng thừa, và tác phẩm của họ luôn ở trong bóng tối” trong xã hội miền Bắc trước 1975. Ông kể ra các họa sĩ Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm.

Tôi khóc những chân trời không có đường bay

Tôi khóc những người bay không có chân trời

Hơn bao giờ hết, ta nhớ đến Trần Dần và tiếng khóc nghẹn ngào của ông. Đồng thời, ta thương tiếc biết bao những tài năng của đất nước bị vùi dập trong cơn bão lịch sử. Cái chân trời đó mãi mãi còn câm nín, u uất.

Xem thêm:   Món chay ở Sài Gòn

HDQ