Mùa hè 72 Sàigòn mê mệt với phim Été 42 trên nền nhạc “The Summer Knows” của Michel Legrand. Tôi trong số các thiếu nhi si mê nữ tài tử Jennifer O’Neill. Mùa hè đó tôi còn thuê cuốn 15 Truyện Nghỉ Hè do Nguyễn Tú An phóng tác. Hôm nay đánh máy lại, vì mùa hè lại đến.

(Trần Vũ)

Truyện nghỉ hè

Nguyễn Tú An phóng tác

Phải năm bảy ngày đường Lâm mới tới nhiệm sở. Đó là một trạm kiểm lâm tận miền heo hút nhất của rừng rú cao nguyên. Lâm biết trước công việc không có gì, chàng chỉ ngại buồn. Viên trưởng trạm trước đây đột nhiên mất tích một cách kỳ bí, làm cho không khí tẻ lạnh vùng núi pha trộn đôi chút ghê rợn, khiến Lâm chán ngán thêm.

Trạm nhỏ nên chỉ có một tiểu đội lính Thượng trấn đóng, vừa bảo vệ trạm vừa kiêm nhiệm công việc tuần cảnh trong miền. Được cái trạm nằm trên ngọn đồi, Lâm có thể nhìn bao quát cả vùng, cũng vui mắt đôi phần. Ngay dưới chân ngôi nhà sàn kiên cố dùng làm bàn giấy, là dăm gốc huệ rừng, thứ huệ lớn hoa vàng, tỏa hương thơm hắc. Xa chút nữa là rặng thông mọc lẫn lộn giữa những loại cây gai góc quanh năm trổ hoa màu tím lợt. Dưới chân đồi là dòng suối. Dăm ngọn đồi khác thấp hơn thoai thoải chảy dài, thành hình vòng cung. Vài ba sóc Thượng thấp thoáng trong đám lá, dăm mảnh rẫy cấy lúa lốc. Tầm mắt Lâm ngừng lại ở phía bên kia dãy đồi, vì từ đó trở đi, toàn là rừng. Cây cối trùng điệp xanh ngắt, đậm lạt, lúc nào cũng như mờ trong sương khói.

Một đêm mưa bão, Lâm không tài nào ngủ được. Thứ mưa rừng ào ạt như thác đổ đập vào mái tôn đủ sức làm tỉnh giấc bất cứ một ai. Lại còn gió, còn sấm chớp… Lâm thắp đèn, ngồi xem lại chồng giấy tờ cũ xếp trong ngăn tủ riêng của viên trưởng trạm trước đây. Ông ta ra trước Lâm vài khóa, người hiền lành, đang học cử nhân khoa học thì phải. Vừa cần tiền vừa muốn khảo cứu thêm về rừng cao nguyên nên ông ta tình nguyện xin lên đây, sống khắc khổ như một nhà tu hành. Hai năm sau, ông ta mất tích. Cuộc điều tra phải bỏ dở dang vì thổ dân trong vùng tỏ ra dè dặt, không ai muốn nói tới chuyện này. Hình ảnh người kiểm lâm trẻ tuổi mờ dần trong dĩ vãng.

Lâm mở chiếc ngăn kéo chót, lôi ra một cuốn vở mỏng, giấy bắt đầu vàng. Vừa giở trang đầu, thoáng nhìn dòng chữ “Những chuyện trong rừng” viết bằng mực đỏ, còn rõ như cắt, tự nhiên Lâm thấy ớn lạnh. Linh tính báo cho chàng biết trong cuốn tập mỏng này, chứa đựng nguyên nhân vụ mất tích kỳ lạ của bạn đồng nghiệp.

Thực ra, đây không phải thiên khảo cứu công phu của nhà khoa học mà chỉ là những ghi chú kế tiếp về loại cây trong rừng, nét chữ nhỏ nhắn, giản dị, bình thản, không mảy may xúc động, khiến người đọc tin ngay là tác giả không bịa đặt chút nào.

Lâm vặn to đèn, chăm chú đọc.

Cuốn vở bắt đầu như sau:

“…Tôi vừa khám phá ra một loại cây đặc biệt, chưa từng thấy ghi chú trong bất cứ sách nào.

Đã từ lâu tôi có ý định vào thăm khu rừng phía Bắc và phía Tây ngọn đồi này để bắt đầu khảo cứu về thảo mộc địa phương. Tôi có nhờ lão Răng kiếm cho vài người phu khuân vác, nhưng lão gạt ngay đi:

– Không có ai chịu vào rừng với quan đâu. Không bao giờ có!…

Tha hồ cho tôi hứa hẹn: nào cho lão về sóc chơi, nào thưởng nhiều tiền, lão vẫn lắc đầu. Tới khi tôi nóng giận thực sự lão mới ôn tồn nói với tôi:

– Quan kiểm lâm à!… Tôi quý quan lắm… Tôi coi quan như cùng một mẹ với tôi… Quan phải nghe tôi: đừng bao giờ vào rừng…

Tôi biết lão nói thực, nhưng câu nói của lão chỉ làm tôi thêm tò mò. Tôi mỉm cười vỗ vai lão:

– Thôi được… Để mai tôi đi một mình coi.

Lão trố mắt nhìn tôi, chiếc tẩu dài bịt đồng trễ bên môi, nửa kinh ngạc, nửa khó chịu; lão không nói nửa lời, lặng lẽ quay lưng đi.

Ngày hôm sau, tôi gọi viên Trung sĩ Thượng:

– Chiều nay, sắp đôi ngựa, ta vào rừng, nghe!…

Tôi nói một cách tự nhiên, thử xem y có tỏ ra sợ sệt gì không. Cũng như lão Răng, viên Trung sĩ ngơ ngác một lát rồi lắc đầu:

– Đừng vào rừng mà!… Không ai nên vào rừng…

Nhưng khi thấy mắt tôi quắc lên, y không dám chối nữa:

– …Quan bắt đi thì đi… Rừng không có tốt đâu…

Xem thêm:   Phát súng tuyệt vời

Tôi nhẹ nhàng khuyến khích y:

– Tốt xấu không cần, nhưng ta phải vào coi. Đã có tôi, không sao đâu. Nhớ đem hai khẩu súng săn nghe!

Y cúi chào rồi bỏ đi, lo lắng ra mặt. Tôi nghĩ thầm:

– Chắc trong đó nhiều rắn độc, thành thử họ sợ!

Để đề phòng tôi sắp sẵn ống chích, thuốc men… và mang theo con dao đi rừng thật sắc.

Khoảng hai giờ chiều, tôi cho gọi viên Trung sĩ. Chúng tôi có bốn giờ để thăm rừng, như vậy là quá đủ. Tôi không sợ bị tối giữa rừng, mặc dù miền này, đêm xuống thực là mau. Viên Trung sĩ đỡ túi thuốc khoác lên vai, lầm lì một cách đáng ghét. Tôi làm như không để ý tới, lẳng lặng thúc ngựa đi. Đằng sau chúng tôi còn có một binh sĩ người Thượng theo sau để giữ ngựa khi chúng tôi vào rừng.

Dọc đường, tôi gợi chuyện với viên Trung sĩ nhưng y tỏ ra chẳng biết gì hơn tôi về cánh rừng bát ngát phía trước mặt. Y chỉ biết dân quanh miền, từ già tới trẻ ai cũng sợ bóng vía khu rừng này, không dám đặt chân tới.

Qua lời y, tôi đoán chừng chính vì vậy nên rừng cây xanh ngắt càng ngày càng tỏa ra niềm hãi hùng làm khiếp sợ dân trong vùng.

Biết đâu đấy chẳng là nỗi lo âu vô căn cứ, bắt nguồn từ một huyền thoại man rợ nào. Đó cũng là lý do thúc đẩy tôi đặt gót vào khu rừng cấm.

Chúng tôi buộc ngựa ngoài bìa rừng. Người lính Thượng thấy tôi mạnh dạn đi vào dưới hàng cây cao vút, không khỏi ngạc nhiên; anh ta toan cản lại, nhưng viên Trung sĩ thì thào câu gì đó nên anh chỉ lắc đầu, đứng yên.

Khu rừng quả có êm ả khác thường. Lắng tai lắm tôi mới thoáng nghe tiếng lướt nhẹ trên lá khô hay tiếng đập cánh nặng nề của chim rừng. Cái vắng vẻ kỳ lạ như bao trùm một bí mật gì. Chẳng trách thổ dân kinh sợ là phải.

Những thân cây thẳng vút vươn thực cao; tàn lá xòe cách mặt đất hàng vài chục thước. Dưới đất ướt bốc lên làn sương mù vừa oi nồng vừa đượm mùi ẩm mốc.

Viên Trung sĩ càng ngày càng đi gần tôi hơn. Cái yên lặng chết chóc của ngàn cây làm y khiếp đảm. Càng vào sâu tôi càng cảm thấy khó thở. Tôi toan quay trở ra, chợt thoáng ngửi một mùi kỳ lạ, nửa như mùi rữa nát của thú vật chết, nửa như mùi thực hắc của thứ quả quá chín. Mùi này quyện lấy chúng tôi, phảng phất thoảng đến từ phía Tây cánh rừng. Tôi tiến lại phía đó. Viên Trung sĩ cũng tỏ ra ngạc nhiên vì thứ mùi đặc biệt này, y trỏ tay vào đám cây rậm, rồi xăm xăm đi trước tôi.

Chúng tôi quanh quẩn một hồi lâu. Tôi chặt chiếc gậy tre dài, vạt nhọn, lật đám lá mục lên; viên Trung sĩ dùng mũi súng gạt đống cây gai, lấy lối tiến sâu vào trong; nhưng chẳng ai tìm ra nguồn gốc thứ mùi lạ lùng kia. Vậy mà chốc chốc tôi lại ngửi thấy… Hình như làn hơi kỳ dị này được tiết ra đều đặn, theo một nhịp thở của cây rừng thì phải.

Trời tối dần. Chúng tôi đành quay về. Nhưng thế nào tôi cũng khám phá cho được nguồn gốc thứ mùi lạ lùng này mới được…”

–oOo–

“…Tôi lại vừa ở rừng về. Lần này tôi đi một mình. Viên Trung sĩ nạy cớ bị thương ở chân để ở nhà. Tôi đoán chừng y tự gây thương tích để khỏi phải theo tôi. Thực ra tôi cũng chẳng cần tới y làm gì. Có gì nguy hiểm đâu!

Tôi đã tìm ra loài cây đặc biệt kia rồi.

Bữa nay, có lẽ vì mùi cây tiết ra mạnh hơn, nên tôi tiến theo đúng hướng đó không khó khăn mấy. Tôi vượt đoạn đường âm u dưới tàn cây, tới một ao nước đen sì. Và tôi thấy “nó” ngay cạnh bờ ao.

Một tia nắng lọt qua kẽ lá hở, lướt trên loài cây quái dị này. Đúng là một thứ cây, không thể sai được. Nhưng thuộc loại tôi chưa từng thấy trên cuốn sách nào. Ngọn cây là một thứ quả giống nụ nấm lớn, rung rinh trên một thân cây mảnh mai, trông rất lạ mắt. Từ đằng xa, tôi thấy rõ lớp vỏ sần sùi, như vỏ cam sành, lốm đốm vết mốc xanh. Dưới gốc cây xòe ra nhiều tàu lá, hình thù na ná lá dong biển, chỗ đậm, chỗ lợt, có khía và hơi xoăn.

Cây mọc cách ao khoảng hơn thước, trong một vũng bùn thì phải. Dăm tàu lá to bản vươn ra xa, bám chặt xuống mặt đất. Tôi lấy chiếc gậy dài cố nâng một chiếc lên mà không nổi. Hình như có những đường gân lá ăn sâu vào mặt đất. Có điều tôi nhận thấy thân lá rung lên, rồi cành lá từ từ cuốn lại, giống như loài cây trinh nữ ta thường gặp.

Xem thêm:   Ký ức ngày xưa & tủ sách Tuổi Hoa

Phía dưới tàu lá là một thứ nước sền sệt, màu trắng như sữa, pha chút xanh. Chính thứ nước này bốc ra mùi hôi nồng nặc. Càng gần gốc cây, càng có nhiều nước. Có lẽ loài cây này sống được nhờ chất nước đó chăng?

Cây không cao lắm, khoảng thước rưỡi là cùng. Nhưng các tàu lá xòe rộng nên trông ra vẻ mập mạp.

Tôi lấy chiếc gậy tre, chọc thử vào trái cây nhưng với không tới. Tôi nhặt mảnh gỗ mục, liệng vào đó xem sao: mảnh gỗ lướt cạnh trái nấm, rớt vào gốc cây. Tuy chỉ đụng rất nhẹ, mà cây cũng rung động mạnh rồi toàn thân tiết ra thứ nước trắng, đặc như mủ… Mùi thịt rữa nát ghê gớm tới độ tôi phải chạy ra xa, nhưng tôi cũng kịp nhận thấy ngay lúc đó, những rễ cây ngoằn ngoèo trên mặt đất, có cái lớn bằng ngón chân cựa quậy như đàn rắn.

Thực vậy, tôi không hoa mắt chút nào đâu!

Những chiếc rễ chuyển động cùng một nhịp với thân cây lắc lư, khiến tôi có cảm tưởng đó là một thứ nửa cây nửa thú mới đúng. Tôi liệng thêm mảnh gỗ nữa để xem cho rõ: lần này nhiều đốt rễ vươn dài ra như che chở cho cây, còn đám lá cong lên, cuộn lấy mẩu gỗ.

Đúng là một thứ cây đặc biệt, độc nhất không chừng.

Tôi định bụng sẽ chụp hình, và làm một thiên khảo cứu kỹ càng về loại cây này. Trời về chiều, tôi đột nhiên thấy nhức đầu lạ lùng, nhức tới hoa cả mắt. Có lẽ tôi bị sốt rét chắc. Tôi sợ mình ngã ra đây thì nguy, vì chẳng có người Thượng nào dám léo hánh tới cánh rừng này để cứu tôi. Tôi đành bỏ về. Nhưng qua khỏi vùng có mùi cây tỏa ra, tôi thấy dễ chịu ngay. Ra tới ngoài rừng, người tôi lại khỏe khoắn như thường. Thực kỳ lạ!

…Bữa nay trời mưa bão lớn. Tôi không nghĩ tới chuyện vào rừng nữa. Chờ mưa tạnh, tôi cho mời lão Răng lên chơi.

Sau vài ly rượu mạnh lão ưa thích, câu chuyện giữa chúng tôi thêm đậm đà. Trong lúc vui chuyện, tôi thuật lại buổi đi chơi rừng, và hỏi lão có nghe nói tới loài cây kỳ dị đó lần nào chưa?

Lão ngần ngừ một lát rồi mới chịu nói thực:

– Quan à!… Không phải cây đâu… Tổ tiên tôi đã dặn con cháu rồi: Đó là con thú giữ rừng cấm… Nó không biết đi, nhưng làm cho người mê đi rồi ăn thịt… Tay chân nó bò như rắn đó.

Tôi nhìn lão:

– Thế sao không đốn đi cho rồi?

Lão trợn mắt:

– Không ai dám làm việc đó đâu. Dân trong miền không ai dám đi ngang cánh rừng nữa kìa… Ông tôi có nói: ai đã vào rừng mà gặp cây đó là không sao thoát chết.

Tất nhiên tôi không tin lão, nhưng căn cứ theo lời lão thì cây đó phải có từ lâu lắm rồi, ít ra là khoảng trăm năm chứ không ít. Tôi cứ tưởng mình là người đầu tiên dám tới gần thứ cây nguy hiểm ấy. Với quyền hạn kiểm lâm của tôi, tôi sẽ tìm cách đem thứ cây lạ này ra khỏi rừng để giải đi mối sợ sệt vô căn cứ của dân chúng. Đó cũng là điều hay.

Lão Răng vừa về, tôi lập tức sửa soạn máy ảnh và chuẩn bị các thứ cần thiết để nghiên cứu loài cây đó tại chỗ.

Sáng hôm sau, trời vừa tan sương, tôi đã khởi hành. Tôi đem theo một người giữ ngựa, nhưng cho y đợi tận ngoài xa.

Tới chỗ cũ tôi đặt máy ảnh sẵn sàng, chỉ chờ có tia nắng rọi tới là chụp. Trong khi đợi, tôi cố lấy hộp màu ra, chăm chú vẽ. Tôi cố ghi lại trên giấy, màu sắc đặc biệt của thứ cây lạ lùng này. Tôi còn hơi choáng váng, có lẽ tại đêm qua tôi uống mấy viên kí-ninh chăng?

Đang loay hoay vẽ, chợt tôi nghe tiếng động lạt sạt trên đám lá khô. Cách cây dăm thước, một con chuột, loại chuột chù, mõm dài nhọn hoắt, vụt chạy ra. Tôi đoán chừng con gì đuổi nó thì phải: con vật có vẻ sợ sệt lắm. Không sai chút nào: kẻ thù của nó là con nhện độc, thứ nhện ghê gớm to bằng nắm tay, có tám chân lông lá, lướt nhanh nhưng không chạm tới đất, vùn vụt đuổi theo.

Tôi lấy làm lạ vì con nhện không bám sát mồi mà lại chạy song song với con chuột. Giây lát sau tôi mới hiểu. Thì ra con nhện đẩy con chuột thẳng tới gốc cây tôi đang vẽ. Giá là loại cây thường, có lẽ con chuột sẽ núp được dưới tàu lá, nhưng vừa chợt đụng tới chiếc rễ bò lan mặt đất, con chuột vội vã nhảy bắn ra ngoài…

Xem thêm:   Hãng dĩa Việt-Nam & cô sáu Liên

Con nhện chỉ đợi có thế. Thì ra nó biết rõ thú vật nào cũng sợ cây này. Không nhanh bằng chuột, nó dồn con mồi vào thế bí để bắt cho dễ. Nhưng lần này không may cho nó: con chuột nhảy thêm cái nữa, thành thử nó vồ hụt… Con chuột cũng không sung sướng gì hơn, vì nó nhảy liều, nên rơi ngay vào thứ nước đặc sệt dưới cây. Tôi tưởng nó chạy ngay, nhưng không… nó nằm yên như mất hồn. Cùng một lúc thân cây rung lên, từ trên quả dưới gốc, tiết ra thứ nhựa trắng hôi thối nồng nặc.

Tôi thấy con nhện biến mất. Nó biết không tranh nổi mồi với loài cây.

Tôi mải miết theo dõi hai con vật, quên cả chụp hình. Lúc nhìn tới máy ảnh tôi chợt nhớ ra; nhưng lúc này tôi thấy đầu nhức như búa bổ và buồn ngủ lạ lùng. Không dám chậm trễ, tôi nhấc vội máy ảnh, bước ra xa. Trước khi rời chỗ ngồi, tôi liếc nhìn con chuột. Thái độ con vật thực kỳ lạ: thân hình nhỏ bé của nó run rẩy từng chặp. Nó không vùng vẫy chút nào, hình như bị hút chặt trong đám nước đặc sệt. Trong giây lát điều này tôi thấy rõ ràng: chùm lá cây chuyển động, rồi trùm kín lấy con vật. Tôi có cảm tưởng lớp lá cây căng phồng lên một cách chậm chạp. Một lát sau, khi chùm lá giãn ra như cũ, con chuột đã biến mất.

Tôi rùng mình ghê sợ, tôi thu xếp ra về. Ngày mai tôi sẽ tới quan sát kỹ càng hơn. Chắc chắn chưa ai có thể tưởng tượng trong góc rừng này lại có loại cây đơn độc, lì lợm, ghê gớm như vậy. Mà vị tất đã phải là loại cây, có thể là một sinh vật quái dị khác hẳn loài ăn thịt, loài chim, loài… nhưng chắc “nó” biết cách săn mồi để sống nổi hàng thế kỷ nay.

Tôi nghĩ rằng khả năng kiếm mồi của “nó” còn đáng sợ hơn: có thể những cơn nhức đầu, chóng mặt, và đặc biệt chứng buồn ngủ của tôi, mỗi khi đến gần gốc cây, cũng là một cạm bẫy của loại cây không chừng.

Có điều lạ nữa, là tôi cảm thấy sức thu hút của nó thực kỳ dị: tôi gần như say mê khảo cứu nó. Tôi phải tìm hiểu cặn kẽ về sự cấu tạo, về thói quen, về lối kiếm mồi của nó mới được… Cứ theo thái độ con nhện và con chuột đủ thấy thú rừng kinh hãi nó tới mức nào.

Loại cây ăn thịt vẫn có, nhưng thường chỉ bắt nổi ruồi, muỗi… Tôi cảm tưởng thứ cây này ăn thịt cả người không chừng. Có thể lắm!… Nếu không tại sao thổ dân lại biết kiêng cữ không dám đặt chân vào đây?…

–oOo–

Cuốn vở mới được ghi chú tới đó.

Lâm đặt trả nó vào chỗ cũ. Chàng không tài nào ngủ được: chắc chắn viên kiểm lâm trước đây đã bị tai nạn trong rừng. Lâm phải khám phá cho ra chuyện bí mật này, mới yên lòng.

Ngay sáng hôm sau, chàng vào rừng. Nhờ kinh nghiệm của người đã khuất, Lâm cẩn thận mang theo thuốc trừ mùi hôi để đề phòng. Đường rừng vẫn như cũ. Lâm tìm ra thứ cây ma quái kia không khó khăn gì: Vẫn thứ nụ nấm kỳ dị, những cánh lá rong biển quằn quại trên mặt đất, và thứ nước đặc sệt, nồng nặc mùi xú uế.

Lâm bịt mảnh vải tẩm thuốc lên mũi. Chàng không bị choáng váng chút nào nên đủ tỉnh táo để dùng cây sào dài rẽ chùm lá dưới gốc cây. Chàng tìm ra điều mình muốn biết. Trong làn nước trắng như sữa, Lâm khều ra bốn chiếc sọ người, một số xương chân tay, và đặc biệt đôi ủng da có mang dấu hiệu sở kiểm lâm miền này.

Lâm đoán trúng: viên trưởng trạm trước đây đã bị thứ cây lạ tiết thứ nước làm cho mê man, ngã xuống đó. Những rễ cây chuyển động kéo người xấu số lại gần cho chùm lá phủ kín lên rồi… ăn thịt dần… cũng như những thổ dân không may trong vùng, từ xưa tới nay.

Lâm chưa kịp quyết định nên làm thế nào để tiêu diệt thứ cây quái dị này thì hai hôm sau, trời nổi cơn giông tố. Trong mưa bão sét đánh xuống rừng cây. Cả cánh rừng bốc cháy dữ dội.

Khi Lâm trở lại chỗ cũ, than tro đã lấp kín vũng ao nhỏ. Gốc cây ăn thịt người không còn lưu lại một vết tích gì.

NTA phóng tác (Theo E. M. Laumann)

Nxb Sống Mới, Sàigòn 1972

Trần Vũ đánh máy lại tháng 7-2025