Công nguyên là kỷ nguyên lấy năm Chúa Giêsu ra đời làm năm đầu tiên (hay năm mốc) để tính thời gian trước đó và sau đó.
Những năm trước đó gọi là năm trước Công nguyên (viết tắt: BC = Before Christ = Trước Chúa Cứu Thế; hay BCE = Before the Common Era = trước Công Nguyên), hoặc được ghi bằng con số có dấu – (trừ) đứng trước. Thí dụ: muốn diễn tả năm 1234 trước Công nguyên, ta có thể viết: năm -1234 hay 1234 BC hay 1234 BCE; hoặc năm 1234 tr.CN (tiếng Việt).
Những năm sau đó là năm (của/thuộc) Công nguyên, chỉ ghi bằng con số không mang dấu (nhưng hiểu là mang dấu + (cộng) đứng trước, đối lập với những số có dấu – (trừ) của những năm trước Công nguyên); hoặc được ghi với AD = Anno Domini = Năm của Chúa; hoặc với CE = Common Era = (thuộc) Công Nguyên. Khi viết 1945 hay AD 1945 hay 1945 AD hoặc 1945 CE đều mang nghĩa là 1945 năm kể từ lúc Chúa Giêsu ra đời.
SAU CÔNG NGUYÊN?
Có một số người Việt dùng thuật ngữ “Sau Công Nguyên”, hoặc viết tắt sCN. để chỉ những năm sau Chúa Giêsu ra đời. Dùng như vậy có thể là không đúng.
Theo định nghĩa ở trên, thì Công nguyên là một kỷ nguyên, tức là một chuỗi dài những năm tháng mở đầu bằng một sự kiện được lựa chọn theo quy ước (ở đây là năm Chúa Giêsu ra đời). Như vậy sẽ không có những năm “sau Công nguyên”, trừ phi kỷ nguyên hiện nay chấm dứt để bắt đầu một kỷ nguyên khác.
Khi cần để xác định những năm thuộc Công nguyên, tiếng Pháp và tiếng Anh dùng như sau: “de notre ère” (thuộc kỷ nguyên chúng ta) “de l’ère chrétienne” / “of the Christian Era” (thuộc kỷ nguyên Kitô), chứ không bao giờ viết: “après notre ère” (sau kỷ nguyên chúng ta) hoặc “après l’ère chrétienne” / “after the Christian Era” (sau kỷ nguyên Ki-tô).
Trong nhiều ngôn ngữ Châu Âu, kỷ nguyên đó được gọi là kỷ nguyên Kitô (tiếng Pháp: ère chrétienne; tiếng Anh: Christian Era. Ở đây tính từ chrétienne / Christian chỉ để diễn ý “có liên quan đến (năm sinh của) Kitô”. Kỷ nguyên Kitô do một tu sĩ tên Denys (tiếng Latinh: Dionysius) đề xuất vào năm 532 (của) Công nguyên. Vì vậy còn được gọi là kỷ nguyên kiểu Denys, tiếng Pháp là ère dionysienne, đã được Giáo hội chấp nhận và áp dụng. Ngày nay kỷ nguyên này đã trở nên thông dụng trên toàn thế giới nên người Trung Quốc gọi nó là Công nguyên (công = chung)