Trong số các phương tiện giao thông thô sơ, xe ngựa có tuổi đời dài nhất so với xe kéo, xe lôi, xích lô đạp. Theo học giả Vương Hồng Sển thì xe ngựa đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn vào đầu năm 70 của thế kỷ 19.

Những cổ xe kiếng ngày xưa do ngựa kéo chở quan chức người Pháp tại Sài Gòn (Nguồn: Manhhaiflickr)
Vào thời kỳ đầu Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh, các quan chức cao cấp sang Sài Gòn mang theo khoảng chừng 100 chiếc xe song mã mui trần để đi lại trên những con đường đất, chứ chưa dùng cho giao thông công cộng. Tiếp theo đó là xe kiếng dùng để chở các linh mục người Pháp, ma-sơ và các tiểu thư, phu nhân của sĩ quan viên chức Pháp. Đầu thế kỷ 20, xe ngựa mà một số người gọi là xe thổ mộ mới bắt đầu xuất hiện và phổ biến tại Sài Gòn-Chợ Lớn.
Nói đến xe ngựa, có khá nhiều tranh luận của các học giả, văn nhân quanh hai chữ “thổ mộ”, xác định nguồn gốc cái tên của loại xe này. Ðọc để biết thêm nhiều ý kiến thôi chứ tôi vẫn thích cách lý giải của cụ An Chi hơn. Cụ cho rằng người Pháp ở Nam kỳ gọi xe thổ mộ là (hộp quẹt) hoặc tac-à-tac, có lẽ khi chạy, vó ngựa chạm mặt đường trải đá nghe tách tách. Riêng người Việt mình gọi là thổ mộ, nguyên do cái thùng xe có cái mui khum khum mang hình dáng rất giống nấm mồ bằng đất, chứ không phải do đọc trại tiếng Quảng Ðông là “tshổu mạ” thành “thảo mã” rồi thành “thổ mộ”, chỉ con ngựa cỏ hay xe chở cỏ cho ngựa. Lại thêm ý kiến xe ngựa ngày xưa dùng để chở quan tài đi chôn nên gọi là thổ mộ chăng? Ðâu chỉ xe ngựa chở hòm. Ghe thuyền, xe bò vẫn được dùng làm xe tang khi thời ấy chưa có phương tiện chuyên chở rộng rãi hơn.
Cách gọi “thổ mộ” không phổ biến bằng người bình dân gọi “xe ngựa” chung chung theo tính chất. “Thổ mộ” chẳng khác nào gọi tên một thương hiệu xe như Mustang nhưng vẫn là một loại xe hơi. Hoặc để phân biệt với loại xe ngựa chở cá, chở hàng hóa lớn nhỏ mà người ta gọi là xe cá đôi, xe cá chiếc tức là xe ngựa chở hàng có một con ngựa kéo hoặc hai con ngựa kéo. Hình ảnh chiếc xe ngựa luôn gắn liền đời sống sinh hoạt của người dân ngay từ giai đoạn đầu khi người ta biết dùng gia súc làm cỗ máy thay sức kéo của con người, rồi nó trở thành ký ức khó phai mờ trong quá trình phát triển các phương tiện giao thông.

Xe ngựa thồ hàng có khi người ta sử dụng cả trâu hay bò làm sức kéo (Nguồn: Internet)
Xe ngựa là một trong những phương tiện sơ khai nhất, gần gũi nhất giữa con vật và con người. Con ngựa, con bò hay con trâu là những gia súc hiền lành, có sức mạnh, lại hiểu được ý người, nó nghe theo nhịp roi và tiếng hò la của bác xà ích điều khiển. Do vậy, xe ngựa tự nhiên trở thành một hình ảnh đẹp trong đời sống, nên thơ đi vào văn chương, thậm chí xuất hiện trong sách giáo khoa để dạy học sinh tình yêu quê hương mà nếu không có lời nhắc nhở của mấy người bạn lớn tuổi thì tôi đã quên từ “ba đời vương”. Mấy ông bảo rằng, từ hồi tiểu học đã thuộc lòng bài thơ lục bát “Tôi yêu” của thi sĩ Bàng Bá Lân: “Tôi yêu tiếng Việt miền Nam / Yêu con sông rộng, yêu hàng dừa cao / Yêu xe thổ mộ xôn xao / Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê”.
Cảnh xe thổ mộ xôn xao ở miền quê chắc là ở vùng Chợ Lớn – Gia Ðịnh xưa (Chợ Lớn bao gồm Tân An, Long An ngày nay và Bình Dương, Tây Ninh thuộc vùng Gia Ðịnh), chứ các tỉnh lỵ miền Tây xe ngựa không nhiều, đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ Mỹ Tho khi ấy có đường xe lửa Sài Gòn kết nối đã làm cho thị tứ này trở nên sầm uất nhất miền Nam chứ không phải Cần Thơ, trong khi phương tiện giao thông phổ biến đi lại chuyên chở hàng hóa ở các vùng miền khác là ghe đò hoặc bằng xe lôi đạp. Duy chỉ mỗi vùng Tịnh Biên, An Giang do địa hình vùng núi, ít sông rạch, nên xe ngựa xuất hiện vào thời gian sau này, vào khoảng thập niên 60, và còn giữ được đến ngày nay, tuy còn không nhiều, dùng để thồ hàng hay chở khách trong các làng quê xa ra chợ xã. Có lần đi Vĩnh Trung, Tịnh Biên cách nay hơn 10 năm, tôi thấy vài chiếc xe ngựa, khung thùng không phải hình thổ mộ mà là mui trần hay bằng tấm tôn uốn cong, chạy bằng bánh xe hơi, gợi nhớ một thời vang bóng của chiếc xe ngựa nhưng không còn giữ kiểu cách truyền thống nữa.
Chỉ có đất Thủ Dầu Một (Bình Dương) một thời in đậm vó câu. Nơi đây, được nhiều người cho là cái nôi xuất phát và đóng thùng xe ngựa không chỉ cho vùng đất miền Ðông mà còn cung cấp xe ngựa cho cả Sài Gòn – Chợ Lớn. Trong bài “Vè 47 chợ” mô tả sự nhộn nhịp lao xao của bến xe ngựa như sau: “Thiên hạ thất kinh là chợ Hớn Quản / Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang / Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một / Khỏi lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu…”. Theo các tác giả người Pháp L. De Grammont và Baurac viết về xe ngựa đất Thủ ghi rằng: Thoạt đầu, quan lại Pháp mang theo xe song mã du nhập vào Sài Gòn, rồi đến cuối thế kỷ 19 thì vài chiếc song mã được mang sang Bình Dương để phục vụ quan lại. Xe đẹp và tiện dụng nên thợ mộc đất Thủ phỏng theo, chế tác thành xe thổ mộ vừa chở hành khách và vừa kèm theo hàng hóa rau trái của người dân mang vào Sài Gòn buôn bán. Ngựa được trang trí cho đẹp có chùm lông gà trên đầu, cổ đeo lục lạc. Xe trang hoàng chạm lủng, có gắn đèn dầu.

Xe thổ mộ vừa chở hàng vừa chở khách, một trong những phương tiện giao thông ngày trước tại Việt Nam (Nguồn: Manhhaiflickr)
Thợ mộc đất Thủ nổi tiếng tài hoa, lại là vùng đất có nhiều rừng cho gỗ quý, cứng chắc để làm bánh xe. Ban đầu xe ngựa không có mui, về sau cải tiến thêm cái mui che mưa che nắng. Nhưng cũng có những người lớn tuổi dính dáng ít nhiều về nghề nuôi ngựa ở Ðức Hòa cho rằng người thợ Việt mình bắt chước thùng xe ngựa Mã Lai. Có người phải sang tận Mã Lai mua cỗ xe ngựa 7, 8 cây vàng, mang về chế tác lại thành xe thổ mộ rồi từ đó mà lan truyền kiểu mẫu.
Chuyện kể truyền miệng như vậy tôi được nghe khi đi tìm người đóng xe ngựa cuối cùng cho bài viết cách đây 20 năm. Rốt cuộc thì tôi tìm được ông Hai Sộp ở chợ Búng, thị trấn An Thạnh, người nối gót đóng thùng xe ngựa truyền thống từ đời cha là ông Hương quản Luốc làm nghề đóng xe ngựa nổi tiếng một thời vùng đất Thủ. Trong khu nhà vườn rộng mát, ông còn lưu giữ vài kiểu xe nguyên bản, và phục chế đóng mới một số xe theo đặt hàng của các khu du lịch hoặc các đoàn làm phim trong nước thuê mướn quay cảnh vó câu một thời lọc cọc trên những nẻo đường quê. Ông Hai Sộp càng nức tiếng với biệt danh người đóng xe ngựa cuối cùng của vùng đất Ðông Nam bộ, sau khi hãng truyền hình Pháp thuê của ông 9 chiếc xe ngựa cho đoàn làm phim “L’Amant” (Người tình).
Ông Hai Sộp kể lại thời vang bóng của những chiếc xe ngựa do cha mình và nhiều thợ mộc nổi tiếng khác như Ba Ký, Mười Thân, Tư Hoành, Sáu Kiệp của vùng Tương Bình Hiệp, Phú Cường sản xuất thùng xe. Thời huy hoàng xe ngựa là vào thập niên 20 của thế kỷ trước, cho đến đầu thập niên 70 thì coi như chấm dứt hẳn vì lệnh cấm xe ngựa hoạt động trong thành phố. Thật ra lệnh hạn chế một số tuyến đường và bến xe ngựa trong Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đã có trong từng giai đoạn trước đó nữa. Ông Hai nói, bến xe ngựa ở Sài Gòn – Chợ Lớn nhiều lắm, đông nhất ở đầu đường Gia Long ngay Ngã Sáu Phù Ðổng, khu bến xe Petrus Ký, Chợ Cầu Muối, Chợ Bình Tây. Sau này vào giữa thập niên 60, chính quyền cấm xe ngựa hoạt động ở trung tâm thành phố. Và kế tiếp là cuộc bùng nổ các phương tiện giao thông như xe buýt, xe lam, xe taxi, xe gắn máy… khiến xe ngựa thu hẹp dần, lui về hoạt động trên một số tuyến đường cho phép ở nội thành và các quận ven đô. Ngựa phải mang vật dụng hứng phân, nếu phóng uế trên đường sẽ bị phạt nặng. Tôi không hình dung được cái vật dụng hứng phân mà bác xà ích treo là như thế nào. Có người bảo là cái mo cau treo lủng lẳng, có người bảo cái thùng sắt tây, nhưng tôi vẫn thấy ngựa cứ tự nhiên ị trên đường từng bãi phân xanh mốc.
Giai đoạn này, tôi biết rõ vì có nghe bản tin trên đài radio về lệnh cấm. Xe ngựa chỉ được phép hoạt động trên vài tuyến đường, trong đó có đường Lê Văn Duyệt ngang qua Hòa Hưng là nơi gia đình tôi sinh sống. Trạm này kết thúc ngay ngã tư Hồng Thập Tự, vài năm sau lại được lệnh dời xuống gần Ngã Sáu Công Trường Dân Chủ. Không biết các bến xe ngựa ở các quận khác dời ra đâu, riêng chợ Hòa Hưng thì từ hừng sáng xe ngựa từ các vùng Bà Ðiểm, Hóc Môn đổ hàng xuống. Thích nhất vào mỗi ngày rằm trong tháng, hay trước ngày Tết nhất, từng cỗ xe ngựa trông như xe hoa kéo nhau đi trẩy hội, hai bên hông thành xe treo từng đôi quang gánh đầy bông cúng vạn thọ vàng rực hay hoa huệ trắng nõn nà, có khi là thúng hoa sen hồng phấn cột chặt trên nóc mui. Bức tranh màu sắc của cỗ xe đó thật đẹp biết bao, mà bây giờ tôi không bao giờ tìm lại được. Có chăng là những cảnh được tạo dựng ở các khu du lịch hay đường hoa Nguyễn Huệ ngày xuân.
Thú thật tôi không thích đi xe ngựa. Hình như tôi được đi xe ngựa chừng 4, 5 lần vào thời tuổi nhỏ. Nó chật chội và chậm chạp, không phù hợp trong thời hiện đại. Nó trở nên lạc hậu, suy tàn theo quy luật có mới nới cũ. Thế hệ trẻ sau này nhìn lại những tấm ảnh xưa có thể chỉ thấy lạ lẫm chứ trong lòng chưa hẳn là thích thú. Chỉ có những người lớn tuổi, tóc bạc màu mây, có thể còn vương vấn chút tình cho cỗ xe ngựa xưa một thời vang bóng.
TN