Đồn Keating
Nắng vẫn còn gay gắt, dù trời đã tháng 10. Những cơn gió khét mùi sa thạch của vùng núi đá quanh thị trấn Kamdesh thổi tung những bụi gai, có các nhánh dài màu nâu đậm, đã khô, quấn lại với nhau, tròn như một trái cầu lớn, lăn lưng tưng về phía thung lũng nằm dọc theo con đường nhựa. Mặt đường đầy những lỗ đạn pháo, các miếng nhựa đen văng khắp nơi. Vết tích còn lại của hơn 300 chiến binh Taliban, bày trận biển người, tràn ngập tiền đồn Keating hai tuần trước.
Hai anh Taliban râu xồm, đội nón sắt Mỹ, đồng phục đen, đang ngồi ngủ gục trong chiếc thùng gỗ cao, đã được cưa một lỗ hình vuông lớn phía sau lưng để làm trạm gác của tiền đồn Keating. Trong đám bụi mù từ xa. Tiếng người nói cười, la hét, tiếng bánh xe kéo lộp cộp, tiếng thùng thiếc lanh canh, tiếng lừa hí, dê be be đang tiến tới. Anh Taliban, đứng dậy, thò đầu qua lỗ hình vuông, nheo mắt nhìn.
– Ala! Ala!
Gã đút nòng súng Ak vô lỗ vuông, chân đá người bạn đang ngáy. Anh ta đứng dậy, dụi mắt, há miệng.
– Alaaaa!
– Tạch! Tạch! Tạch!…Tạch! Tạch! Tạch!
Hai loạt Ak nổ tung lớp nhựa đường.
– Ngừng lại! Không được tiến tới!…Tụi tôi bắn!
Hai cái miệng dưới đám râu xồm, cùng la lên.
Đoàn người đứng khựng lại. Đám đàn ông, râu tóc lùm sùm, mặt mày bết bát trong lớp mồ hôi đầy bụi đất, trùm những áo choàng rách như giẻ lau. Tay cầm cuốc chim, xẻng, cưa tay, dao dài, búa, rìu, mỏ lết. Vài chị đàn bà trùm vải thô kín mít, ló cặp mắt đen mệt mỏi, tay kéo theo mấy con lừa, dê, được cột giỏ cói 2 bên để chở đồ. Chục đứa con nít, ở trần, quần dài rách ống, bao vải vắt vai. Im lặng. Tiếng chuông đeo cổ của mấy con dê, trừu leng keng.
Cả chục cái miệng của đám dân nghèo, la to.
– Aaaaaaa… Laaaaaaaa!
2 tay Taliban đưa súng.
Đoàn người tỉnh bơ tràn tới, chạy ùa vô cổng.
– Ala!
2 tay Taliban lắc đầu, ngồi xuống, ngủ tiếp.

Hồ Đắc Vũ
Lấy lương thực
Vậy là. Cuốc chim, xẻng, cưa tay, dao dài, búa, rìu, mỏ lết, vung lên. Vậy là đục, cắt, cưa, đập, gỡ ván, gỡ nóc nhà, gỡ sườn sắt tiền chế của cả trại, bỏ lên lưng lừa, lưng dê, cột lại thành từng bó, chở về nhà, hoặc bỏ mọi thứ lên tấm lợp mái bằng nhựa cứng, cột 2 dây, tròng vô cổ lừa, kéo ra khỏi đồn, chất thành từng đống, rồi thân nhân tới khiêng về nhà.
Khu trung tâm chỉ huy đã tan nát, chỉ còn lại vài khung sườn sắt lắp ráp đã hàn cứng và mái nhà với những tấm lợp bằng sợi nhựa màu xanh bể, những lỗ lớn vì bom đạn. Một nhóm người đang dùng thang, leo lên gỡ mái và những sườn sắt lắp ráp của các căn trại kế bên.
Ông quấn khăn trắng, chỉ tay.
– Tụi bay gỡ hết sườn sắt ra, cột thành từng bó, tao lấy chiếc Toyota, chở về.
– Nhưng sườn nhà lớn quá, gỡ hết làm gì?
– Tao muốn làm nhà lớn, ở chung với 2 cô vợ đẹp như con gái Alibaba! Mẹ! dịp may hiếm có… Gỡ đi!
Cả đám cười.
Bên khu lương thực, dân Keating đông hơn những khu khác. Đây là 2 dãy nhà kho, gồm 4 căn rất lớn, cung cấp toàn bộ lương thực tươi và khô cho quân đội Mỹ cùng các nước tham chiến ở miền Đông Afghanistan.
Babak lùa 6 con dê vô cái chuồng nhỏ, xếp bằng những tảng đá xám, cao khuất mình con dê đực, hai bên trồng hai cây cột, sợi dây gân dài nối hai đầu, miếng ny lông bằng nhựa mỏng màu xanh lá, in hình ngụy trang của quân đội Mỹ phủ ngang làm mái che. Những người chăn dê lâu năm trên vùng núi đá này, đã dựng cái chuồng từ mấy năm trước, để có chỗ cho dê đi ăn tránh mưa dông, gió bão bất chợt.
Babak chạy ùa xuống núi, theo nhóm người tràn vô đồn Keating lấy thực phẩm.
Ai đó la lên.
– Chạy tới kho lương thực lấy đồ ăn!
Một nhóm người với xe cút kít, xe thùng bằng gỗ. Chạy vòng qua nhà kho lớn. Babak, cột chiếc bao gạo vô lưng, chạy theo.
Trước mặt Babak là cổng kho lương thực mở rộng. 2 người, khiêng 2 bao bột mì lớn, chồng lên nhau, bỏ vô xe kéo, sau lưng là 4 người, khiêng một nửa con bò đông lạnh đã rã đá, tòng teng khúc đùi đỏ lòm, rớt những mảng máu xuống đất. Bên kia, 2 cậu nhỏ bằng cỡ Babak, khiêng 2 cái đùi trừu, thả vô tấm ny lông đen nằm dưới đất. 2 cậu nắm 2 đầu.
– Kéo ra cổng, có xe cút kít của mẹ chở về.
– Ê! Khoan!
Cô nhỏ tóc tai rối như râu bắp, chạy tới, 2 tay kéo theo 2 thùng nho xanh, bỏ lên tấm ny lông.
– Kéo ra cho mẹ luôn.
Một xe thùng khác, hai người đẩy phía sau, hai người kéo phía trước. chất đầy đùi bò, đùi trừu, vài bao bột mì, 2 thùng bánh mì dài, có bao bột bị rách, rải một đường màu trắng, dọc theo hông xe. Sát bên, là cô gái bịt mặt với tấm mạng xanh lơ, đang đẩy con dê ốm nhách, 2 bên hông là 2 túi vải đựng đầy những con gà tươi đã rã đá và những bắp cải bắt đầu héo.
Babak thèm thuồng nhìn những con gà.
“Arah, Ba của Babak, 45 tuổi, cựu chiến binh Taliban, mất một cánh tay trong trận đánh mìn hy sinh. Ông trở về nhà sau 5 năm tham chiến. Nhà là túp lều gỗ, lợp lớp rơm rạ, mỏng tới độ ánh mặt trời rọi sáng trưng cái nền đất gồ ghề. Bên ngoài là bếp, với cái lò bằng đá truyền từ đời ông nội, bên trong 1 giường ngủ đã sụm xuống đất vì gãy 4 chân. Babak, đứa con trai 8 tuổi, phải ngủ trên bàn mỗi đêm, sau bữa ăn tối. Nó thay người cha cụt tay, đang bị sốt nặng vì vết thương làm độc, chăn đàn dê 6 con. Tối hôm qua, Babak đã đánh tan trái trứng gà cuối cùng trong lon nước lớn, nó lấy chảo, chiên lên với búp bông cải đã héo vàng cho ba ăn tối. Phần nó, chỉ cắt một miếng nhỏ, nhai với miếng bánh mì dẹp, đã khô mấy ngày rồi. Sáng, Babak vắt được 6 lít sữa dê, nó lấy 1 lít nấu lên cho ba.
– Con đem 5 lít đi bán, khi đi chăn dê, con sẽ mua bánh mì… Ba uống đỡ lít sữa, tối con mua thịt về ăn.
Babak bước ra, nó kéo tấm giấy bìa, che cái cửa sổ nhỏ, tránh những cơn gió núi lạnh ngắt lòn vô phòng ba, vào buổi chiều.”
Babak chạy vô kho thực phẩm. Khu rau quả, những thùng trái cây còn nhiều, có những thùng rớt xuống nền, đã nát ra. Babak chồm lên, kéo 1 thùng bìa cứng, lấy 2 trái dưa hấu, 1 hộp táo đỏ, 1 hộp lê, 1 cục phô mai lớn, 2 hộp nước cam tươi, bỏ vô túi vải. Khu chứa gạo, bột mì, nằm ở cuối kho, những bao vải trắng, chất cao tới lưng chừng nóc. Babak lấy 4 bao bánh mì lát. Nó không lấy bột mì, vì không có chỗ chứa. Qua một cửa lớn, là khu đông lạnh, chứa bò, gà, trừu, cá. Điện của đồn Keating mới tắt, kể từ lúc chiếc C-130, chở toán lính Mỹ cuối cùng cất cánh khỏi phi trường Kabul 3 ngày trước, nên mọi thứ cá thịt, thực phẩm đông lạnh đều đã rã đá, nước chảy thành những đường dài dưới các dãy kệ gỗ chứa hàng. Thịt vẫn còn rất nhiều. Có những tảng thịt bị ai đó không khiêng hết, bỏ lại, nằm lăn lóc trên nền nhà, đang bốc mùi. Những khúc thịt bò, trừu nằm trên quầy cũng bắt đầu vữa ra với cái nắng hầm hập trên nóc kho.
Rất nhiều người lấy tay rờ thử vô các tảng thịt bò thấy còn màu đỏ tươi.
– Nó hư ở bên trong, có giòi rồi.
– Thịt gà là tệ nhất, vì mau thúi… Tao chỉ lấy được 2 con gà trong một thùng lớn 24 con.
– Cá thì đừng đụng vô, thấy thì tươi…
Chị đàn bà bịt mặt lắc đầu.
– Ở trong ươn hết!
– Thịt trừu khá hông?
Chị nhún vai.
– Tao mới lấy được 1 đùi… Chưa hôi, còn ăn được tối nay.
Chị chỉ tay.
– Ở ngay quầy đó… Nhớ coi cho kỹ, thịt có đốm nâu, đốm xanh là khỏi lấy… Mẹ! Dộng vô là tiêu chảy rồi qua thương hàn cấp kỳ… Về với Ala là cái chắc!
Tìm đồ hộp
“Vậy! Mình qua kho đồ hộp là an toàn. khỏi sợ hư”
Babak tới cái cửa hông lớn thông qua khu đồ hộp, đồ khô.
Ba tầng quầy dài, chạy ngang căn phòng, từ vách này tới vách kia, ở giữa là 3 lối đi song song. Từ lối đi, Babak vòng sát tường tới quầy đồ hộp.
Còn rất ít đồ hộp trên quầy. Vài thùng súp gà hộp bằng thiếc, lớn bằng bắp đùi của Babak, dù không biết chữ Mỹ, nhưng nhìn thấy hình con gà đã làm thịt, nằm trên dĩa, Babak biết chắc đó là thịt gà, thùng có hình đùi gà, bảo đảm là đùi gà. Thùng với hình tô súp và những lát gà xé, chắc chắn là súp gà. Nhưng Babak lại không thích thịt gà, cũng như ba nó, nó chỉ thích thịt bò, trừu hoặc dê. Babak qua quầy bên kia. Chỉ vài thùng gà nằm trên quầy, một số rớt xuống sàn, đã móp méo, quầy có bảng trắng, ghi chữ “BEEF”, hoàn toàn không còn thùng nào. Mọi người cũng như Babak, họ thích bò, và họ đã lấy sạch. Babak tiu nghỉu, nó thở dài.
“Vậy thì đâu có gì cho ba … Mình đã nói rằng sẽ mua thịt về ăn tối nay!”
Babak, ngồi xuống cái ghế dài sát tường, nhìn những người khác leo lên quầy, lấy mấy thùng gà, chuyền xuống cho người thân bỏ vô thùng, đưa lên xe đẩy.
“Hay là mình lấy thùng súp gà về ăn đỡ?
Babak nhìn lên quầy, một thằng nhỏ leo lên lấy hết 4 thùng súp gà xé, chuyển xuống cho mẹ nó phía dưới.
Babak đứng dậy, chậm rãi đi quanh khu đồ hộp, tới quầy thịt bò, ngồi xuống nhìn qua các quầy và những góc ở sát bên dưới.
“Biết đâu người ta còn bỏ sót thùng thịt bò”
Babak đi hết 2 quầy dài, nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Không còn một thùng nào sót lại. Babak vòng thêm một lần nữa. Vẫn không có thùng nào.
Nó thất vọng, mặt buồn xo. Bước ra ngoài sân trước cửa nhà kho. Babak cởi cái túi đeo lưng, đếm
“Hai trái dưa hấu, 1 hộp táo đỏ, 1 hộp lê, 1 cục phô mai lớn, 4 bao bánh mì, 2 hộp nước cam tươi”
“Không! ba thích thịt bò, ba cần thịt bò” Nó lầm bầm.
Babak đứng dậy, nhìn chung quanh. Những bao bột mì, rau quả, trái cây, đùi trừu, mấy thùng gà, dính đầy bụi đất, người ta không khiêng hết, bỏ lăn lóc khắp nơi. Babak đi một vòng sân, hy vọng sẽ tìm miếng thịt bò hoặc thùng thịt bò đóng hộp nào mà ai đó đã quên hoặc không thể đem đi. Babak tới khu bãi rác, nơi người ta bỏ lại những gì không đem đi được. Nó bước vô, coi từng thứ. Và đúng là Ala có lòng thương.
Trong một góc nhỏ, bị nhiều thùng thực phẩm đè lên trên, là một thùng bằng thiếc màu vàng nhạt, to cỡ bằng bắp đùi nó, đang nằm sát đất.
Babak bước nhanh tới, ôm lên. Chung quanh thùng, miếng giấy dài in hình cái đầu bò, và những miếng thịt bò cắt đẹp đẽ, đỏ hồng nằm trên lớp rau, trong cái dĩa to.
“Con đội ơn Ala! Đã có thịt bò cho ba con rồi!”
Babak không cần coi kỹ, nó chạy cái vèo ra khỏi Keating, lên núi lùa đàn dê về nhà.
Bữa ăn tối
– Ba ngồi vô bàn, uống nước cam tươi.
Babak khui hộp cam tươi, đổ vô ly. Ông Arah ra khỏi giường, ngồi xuống bàn, uống ly nước.
– Con có thịt bò cho ba.
Babak, kéo chiếc túi vải ra bếp. Nó lấy 2 cái đĩa nhôm móp méo. Nạy cái khoen trên nắp, khui thùng thịt bò. Babak đổ những miếng thịt bò không còn màu hồng, đầy 2 đĩa nhôm, lấy chiếc muỗng lớn, múc nước súp đã có màu nâu đậm vô đĩa.
– Ba! Mình ăn buổi tối thật ngon.
Babak đứng dậy, lấy gói bánh mì, để trên bàn.
– Bánh mì Mỹ nè ba.
Nó lấy đưa một lát cho ông Arah
– Ăn với món thịt bò hầm mà ba thích.
Babak đẩy chiếc đĩa nhôm đầy thịt bò hầm tới.
Babak vô bếp, đem ra 4 miếng dưa hấu lớn, để trên bàn.
– Ba! Có luôn dưa hấu tươi!
Ông Arah nhìn đứa con trai, mắt rưng rưng.
– Ăn thịt bò đi ba!
Hai cha con ăn một mạch, sạch 2 đĩa bò hầm.
Sáng mai, Alam, người hàng xóm, không thấy Babak lùa dê lên núi, cũng không thấy khói trắng từ ống nhôm ở nóc lều.
Anh kêu lớn
– Ông Arah! Cậu Babak!
Trong nhà không một tiếng động.
Alam đẩy cánh cửa, bước vô.
Hai cha con Arah và Babak nằm chết dưới nền nhà lạnh ngắt, miệng sùi đống bọt đen. Ngay chân bàn, thùng thịt bò chỉ còn sót lại miếng thịt màu nâu đậm, những con giòi màu xanh, bò lổm nhổm chung quanh. Trên chiếc bàn ăn nhỏ, 2 đĩa nhôm sạch trơn và 4 miếng dưa hấu đỏ tươi.
Alam khép cửa lại.
– Tội! Hai cha con chết… Chưa kịp ăn miếng dưa hấu tươi.
HĐV